Sứ Giả
và
Tóm Tắt Các Thời đại
The
Messenger & A Resume of the Ages
by Brother William Marrion Branham
(Bản dịch Tiếng Việt lần 6
/Vietnamese Edition – Ver. 6 /Dec. 10 / 2007)
Sứ giả và Tóm Tắt Các Thời đại
The Messenger & A Resume of the Ages
( Vietnamese Version 6 )
by Brother William Marrion Branham
“Chúa Giê-hô-va chẳng có làm một việc
ǵ mà Ngài chưa
tỏ sự kín nhiệm Ngài ra trước
cho tôi tớ Ngài, là các đấng Tiên tri.
Khi sư tử gầm thét, th́ ai mà chẳng
sợ?
Khi Chúa Giê-hô-va đă phán dạy,
th́ ai mà chẳng nói tiên tri?”
(A-mốt 3:7, 8)
“Nầy, Ta sẽ sai đấng Tiên tri
Ê-li đến cùng các ngươi
trước ngày lớn và đáng sợ
của Đức Giê-hô-va chưa đến.
Người sẽ làm cho ḷng cha trở lại
cùng con, ḷng con trở lại cùng cha,
kẻo Ta đến lấy sự rủa
sả mà đánh đất nầy.”
(Ma-la-chi 4:5 6)
“Đức Chúa Jêsus đáp rằng: ‘Thật
Ê-li phải đến mà sửa lại mọi việc.
...Ê-li đă đến rồi, và người
ta không nhận biết,
song họ lại xử với người
theo ư muốn ḿnh... ”
(Ma-thi-ơ 17:11 12a)
“Nhưng đến ngày mà vị Thiên sứ
(Sứ giả) Thứ Bảy
cho nghe tiếng ḿnh, và thổi loa,
th́ sự mầu nhiệm Đức Chúa
Trời sẽ nên trọn,
như Ngài đă phán cùng các tôi tớ Ngài,
là các đấng Tiên tri.”
(Khải huyền 10:7)
“Đức Chúa Trời đă lập
trong Hội Thánh, thứ nhứt là Sứ đồ,
thứ nh́ là đấng Tiên tri, thứ
ba là Thầy giáo,
kế đến kẻ làm phép lạ, rồi
kẻ được ơn chữa bịnh,
cứu giúp, cai quản, nói các thứ tiếng.”
(I Cô-rinh-tô 12:28)
Sứ Giả
(The Messenger from The 7 Church Ages Book,)
( Vietnamese - Version 6 )
323 1 Khó có thể
tin rằng có một thời đại nào đó đă thật
sự biết rơ vị Sứ giả mà Chúa đă sai đến
cùng họ, ngoại trừ trong thời đại đầu
tiên mà Phao-lô là vị Sứ giả đương thời.
Và kể cả trong thời đại đó nhiều
người vẫn không nhận biết (recognize) người
thật sự là ai.
Hiện nay, thời đại
mà chúng ta đang sống sẽ là thời đại rất
ngắn. Các sự kiện sẽ diễn quá thật nhanh.
V́ thế vị Sứ giả thời đại
Lao-đi-xê này phải có mặt tại đây rồi, dầu
rằng chúng ta c̣n chưa biết về người.
Nhưng chắc chắn sẽ có một thời điểm
mà dân sự sẽ nhận ra người. Bây giờ tôi có
thể chứng minh điều đó v́ cớ chúng ta có Kinh
Thánh (Scripture) mô tả tŕnh bày về Công vụ (ministry) của
người.
323 3 Trước hết, vị Sứ
giả này sẽ là một vị Tiên tri (prophet). Người
sẽ có chức vụ (office) của một vị Tiên tri,
người cũng sẽ có nhiệm vụ (ministry) nói tiên
tri. Tất cả đều được đặt vững
trên nền tảng của Lời Kinh thánh, v́ khi người
nói tiên tri (prophesies) hoặc có một khải tượng
(vision) nào đó, nó sẽ luôn luôn “Dựa theo Lời Kinh
thánh” (Word oriented) và sẽ LUÔN LUÔN được ứng
nghiệm. Người sẽ được chứng thực
(vindicated) là một Tiên tri v́ sự chính xác (accuracy) của
người.
Bằng chứng rằng
người là một Tiên tri được t́m thấy
trong Khải huyền 10:7, “Nhưng
đến ngày (in the days) mà vị Thiên sứ (Sứ giả)
thứ bảy cho nghe tiếng ḿnh và thổi loa, th́ sự mầu
nhiệm (mystery) Đức Chúa Trời sẽ nên trọn
(be finished), như Ngài đă Phán cùng các tôi tớ Ngài, là các
đấng Tiên tri.”
Đối với Vị mà
câu Kinh Thánh trên gọi là ‘Thiên sứ’ (angel) theo bản dịch
King James KHÔNG PHẢI chỉ về một Linh vật trên trời
(heavenly being). Vị Thiên sứ thổi kèn thứ sáu trong Khải
huyền 9:13 mới là một linh vật trên trời, và Vị
Thứ Bảy theo thứ tự được nói trong Khải
huyền 11:15 cũng vậy. Riêng về vị ‘Thiên sứ’
này trong Khải huyền 10:7 thật sự là vị ‘Sứ
giả’ cho Thời đại Thứ Bảy và là một
‘Con người’. Người sẽ đem Sứ điệp
(message) Chúa đến, qua Sứ điệp và công vụ của
người sẽ hoàn tất sự huyền nhiệm mà
Thượng đế đă bày tỏ cho tôi tớ Ngài là
các vị Tiên tri. Thượng đế xem vị Sứ giả
cuối cùng này như là Tiên tri V̀ CỚ NGƯỜI THẬT
SỰ LÀ MỘT VỊ TIÊN TRI, như Phao-lô là một vị
Tiên tri trong thời đại đầu tiên, và thời
đại cuối cùng cũng có một vị Tiên tri.
A-mốt 3:6-7 chép:
Kèn thổi
trong thành, th́ dân sự há chẳng sợ sao? Sự tai vạ
há có xảy ra cho một thành kia nếu mà Đức
Giê-hô-va chẳng làm?
Cũng vậy,
Chúa Giê-hô-va chẳng có làm một việc ǵ mà Ngài chưa tỏ
sự kín nhiệm Ngài (reveals His secrets) ra trước cho tôi
tớ Ngài là các đấng Tiên tri.”
324 1 Trong thời
gian sau rốt (end time period), Bảy Tiếng Sấm (7
thunders) của Chúa Jêsus đă giáng xuống.
Khải
huyền 10:3-4 chép:
“Và kêu lên một tiếng lớn,
như tiếng sư tử rống; Khi kêu lên tiếng
đó rồi th́ bảy tiếng sấm rền lên.
Lại khi bảy tiếng sấm
rền lên rồi, tôi có ư chép lấy, nhưng tôi nghe một
tiếng ở từ trời đến Phán rằng: ‘Hăy
đóng ấn (seal up) những điều Bảy Tiếng
Sấm đă nói, và đừng chép làm chi.’”
Điều ǵ trong những tiếng
sấm ấy không ai biết được. Nhưng chúng
ta cần phải biết. Thế th́ phải nhờ có một
vị Tiên tri đến nhận lănh sự mặc khải
(revelation) đó, v́ cớ Đức Chúa Trời không dùng
cách nào khác để làm sáng tỏ những khải thị
của Kinh Thánh (Scriptural revelations) ngoài sự thông qua một
vị Tiên tri nào đó. Lời Chúa luôn được phán
qua một vị Tiên tri, và lúc nào cũng thế. Đó là luật
của Thượng đế, thậm chí chỉ cần
tra t́m sơ qua Kinh Thánh cũng sẽ thấy rơ điều
đó. Đức Chúa Trời bất biến với những
đường lối bất biến sẽ sai đấng
Tiên tri của Ngài một cách cố định tới mỗi
thời đại, lúc mà con người đă lạc
bước khỏi ‘Mệnh lệnh Trật tự Thiêng
liêng’ (strayed from Divine order).
Khi các nhà thần học
(theologians) và dân sự đều đi xa khỏi Lời
Chúa, Đức Chúa Trời luôn sai phái tôi tớ Ngài đến
với những dân đó (nhưng lại ĺa bỏ xa lánh
các nhà thần học) hầu để sửa lại
điều dạy dỗ sai trật (correct false teaching) và
đưa dắt dân sự trở lại cùng Đức
Chúa Trời.
324 2 Cho nên
chúng ta thấy vị Sứ giả Thứ Bảy (the 7th
messenger) xuất hiện, và người là một vị
Tiên tri.
Chúng ta không những nhận
thấy vị Sứ giả trong Khải huyền 10:7 ở
đây đă xuất hiện, nhưng cũng t́m thấy Lời
Kinh thánh có nói về sự xuất hiện của Ê-li
trước khi Chúa Jêsus trở lại (returns).
Trong Ma-thi-ơ 17:10 chép:
“Môn
đồ hỏi Ngài rằng: Vậy th́ sao các thầy thông
giáo nói rằng Ê-li phải đến trước? Và Chúa Jêsus đáp rằng: “Thật Ê-li phải đến mà sửa lại
mọi việc (restore all things).”
Trước khi Chúa chúng ta tái
lâm, Ê-li phải trở lại để hoàn tất công việc
phục hồi trong Hội Thánh (restoration in the Church).
Đây là điều mà Ma-la-chi 4:5-6 đă dự báo:
“Nầy,
Ta sẽ sai đấng Tiên tri Ê-li đến cùng các
ngươi trước ngày lớn và đáng sợ của
Đức Giê-hô-va chưa đến. Người sẽ
làm cho ḷng cha trở lại cùng con cái, ḷng con cái trở lại
cùng cha (the heart of the children to the fathers), kẻo Ta đến
lấy sự rủa sả mà đánh đất này (smite
the earth with a curse).”
Bởi thế chẳng c̣n
nghi ngờ ǵ nữa về việc Ê-li phải trở lại
trước khi Chúa Jêsus tái lâm. Người có một công tác
đặc biệt phải hoàn tất. Công tác đó là phần
(sau) của Ma-la-chi 4:6 đă đề cập: “Người
sẽ khiến ḷng con cái (ngoại bang) trở lại cùng
những người Cha (Sứ đồ) của họ.”
Lư do để chúng ta biết
đây là một công tác đặc phái của người
phải làm vào thời điểm bấy giờ, là bởi
v́ người đă hoàn tất phần (trước) lời
dự ngôn rằng: “Người sẽ làm cho ḷng những
người cha trở lại cùng con cái,” là lúc mà Công vụ
của Ê-li (the Elijah ministry) được thực hiện
qua Giăng Báp-tít.
Như trong Lu-ca 1:17 đă chép:
“Chính
người sẽ lại lấy tâm thần, quyền phép
Ê-li (in the Spirit and power of Elias) mà đi trước Chúa,
để đem ḷng cha trở về cùng con cái, kẻ loạn
nghịch đến sự khôn ngoan của người công
b́nh, đặng sửa soạn cho Chúa một dân sẵn ḷng (a people prepared).”
Qua công vụ của Giăng
(the ministry of John), “ḷng những người cha đă quay về
cùng con cái.” Chúng ta biết điều đó v́ Chúa Jêsus
cũng đă phán như vậy, nhưng câu ấy không có nhắc
tới việc “ḷng con cái (ngoại bang) quay trở về
cùng những người Cha (các Sứ đồ).” V́ điều
đó c̣n chưa xảy ra.
Ḷng của con cái ngày sau rốt
(the last day children) phải được quay trở về
cùng những người Cha thời lễ Ngũ tuần
(các Sứ đồ, Pentecostal or Apostolic fathers). Giăng
đă sửa soạn sẵn sàng những người cha
(Hê-bơ-rơ, các Sứ đồ) cho Chúa Jêsus để
chào đón con cái (ngoại bang) của Ngài vào trong bầy. Bây
giờ vị Tiên tri nầy được Thần linh của
Ê-li giáng trên ḿnh (Spirit of Elijah falls upon) sẽ chuẩn bị
con cái (ngoại bang) để chào đón Chúa Jêsus trở về.
325- 1 Chúa Jêsus
gọi Giăng Báp-tít là Ê-li.
Ma-thi-ơ 17:12 chép:
“Nhưng Ta phán
cùng các ngươi rằng: Ê-li đă đến rồi, và
người ta không nhận biết, song họ lại xử
với người theo ư muốn ḿnh.”
Lư do mà Chúa gọi Giăng là
Ê-li, là v́ cớ đồng một Thần linh đă từng
ngự qua trên ḿnh Ê-li nay đă trở về ngự trên
Giăng, cũng thế Thần linh ấy đă trở về
ngự trên Ê-li-sê sau thời trị v́ của vua A-háp. Bây giờ
một lần nữa Thần linh ấy sẽ trở về
ngự trên một người khác ngay trước khi Chúa
Jêsus tái lâm. Người này sẽ là một vị Tiên tri.
Người sẽ được Thượng đế
chứng thực (vindicated).
Tuy chính Chúa Jêsus không tái xuất
hiện trong thân xác đặng chứng thực người,
(như Ngài đă chứng thực Giăng), nhưng Thánh
Linh sẽ thực hiện điều đó hầu cho công
vụ của vị Tiên tri này sẽ được chứng
kiến bằng sự biểu hiện (manifestation) lớn
và lạ lùng.
Là một vị Tiên tri, mỗi
một sự mặc khải (revelation) sẽ được
chứng thực bằng sự ứng nghiệm (come to
pass). Công việc quyền năng rất diệu kỳ
(Wonderful acts of power) sẽ được thi thố theo mệnh
lệnh bởi đức tin (commands in faith) của người.
Sau đó người sẽ
đưa ra Sứ điệp (the message) mà Thượng
đế đă ban cho người trong Lời Kinh thánh (in
the Word) để dẫn đưa dân sự quay trở về
với chân lư và quyền năng thật của Thượng
đế (turn the people back to truth & the true power of God). Một
số người sẽ nghe theo, nhưng phần đông vẫn
trung thành chạy theo h́nh thức truyền thống (run true
to form) mà chối bỏ người.
325 2 Bởi v́ vị Tiên tri Sứ giả
(prophet messenger) nầy trong Khải huyền 10:7 với vị
Tiên tri trong Ma-la-chi 4:5-6 vốn giống nhau, nên bản tính
người sẽ giống như Ê-li và Giăng: Cả hai
đều là người ly khai khỏi những học viện
tôn giáo được công nhận (accepted religious schools) thời
đó. Cả hai đều là người của đồng
vắng (men of the wilderness). Cả hai đều chỉ hành
động sau khi nhận được “Lời Chúa đă
phán như vậy” (Thus said the Lord), qua sự mặc khải
(revelation) trực tiếp từ Thượng đế. Cả
hai đều đả kích (lashed out against) những luật
lệ tôn giáo (religious orders) và những người lănh
đạo thời đó.
Không những thế thôi, họ
c̣n chửi mắng những kẻ đă bị bại hoại
(corrupt) và những kẻ định làm cho người khác
bại hoại. Và xin lưu ư, cả hai đều đă
nói tiên tri (prophesied) chống lại những phụ nữ
vô luân (immoral women) và lối sống của họ. Ê-li
đă chỉ trích Giê-sa-bên (Jezebel), và Giăng th́ quở trách
Hê-rô-đia, vợ của Phi-líp.
326-1 Mặc dù sẽ chẳng
được ưa thích nhưng người sẽ
được chứng thực bởi Thượng đế.
Cũng như Chúa Jêsus đă xác nhận (authenticated) Giăng
và Thánh Linh đă chứng thực Chúa Jêsus, chúng ta cũng có
thể trông mong Đức Thánh Linh ưu tiên chứng thực
và làm việc qua đời sống người với những
hành động đầy quyền năng không thể phủ
nhận và không thể t́m thấy được ở
nơi nào khác; Và chính Chúa Jêsus, khi trở lại cũng sẽ
chứng thực người như Ngài đă chứng thực
Giăng.
Trước đây Giăng
đă làm chứng (witnessed) về sự trở lại của
Chúa Jêsus, và người này cũng như Giăng, cũng sẽ
làm chứng rằng Chúa Jêsus sắp tái lâm. Và chính sự trở
lại của Chúa Jêsus sẽ chứng thực người
này thật là người dọn đường cho sự
tái lâm của Ngài (forerunner of His second coming). Đây là chứng
cớ cuối cùng chỉ về vị Tiên tri trong Ma-la-chi
4, bởi v́ chính Chúa Jêsus sẽ xuất hiện (appearing)
ngay giờ kết thúc của Thời kỳ người
Ngoại bang (Gentile period). Đến lúc đó sẽ là quá
muộn đối với những người đă từng
chối bỏ người.
326-2
Để làm sáng tỏ thêm sự
tŕnh bày về vị Tiên tri ngày sau rốt này (the last day
prophet), chúng ta nên đặt biệt chú ư rằng vị Tiên
tri trong sách Ma-thi-ơ 11:12 là Giăng Báp-tít, người mà
đă được báo trước (foretold) trong Ma-la-chi
3:1,
“Nầy, Ta sai Sứ giả Ta
(My messenger), người sẽ dọn đường
trước mặt Ta; Và Chúa mà các ngươi t́m kiếm sẽ
th́nh ĺnh vào đền thờ Ngài, tức là Thiên sứ của
sự Giao ước (the Messenger of the Covenant) mà các
ngươi trông mong. Nầy, Ngài đến, Đức
Giê-hô-va Vạn quân Phán vậy.”
Ma-thi-ơ 11:1-12 chép:
“Vả, Đức Chúa Jêsus đă
dạy các điều đó cho 12 môn đồ rồi, bèn
ĺa khỏi chỗ này đặng đi giảng dạy
trong các thành xứ đó.
Khi Giăng ở trong ngục
nghe nói về các công việc của Đấng Christ, thi sai
môn đồ ḿnh đến thưa cùng Ngài rằng:
Thầy có phải là Đấng
phải đến, hay chúng tôi c̣n phải đợi đấng
khác chăng?
Đức Chúa Jêsus đáp rằng:
Hăy về, thuật lại cùng Giăng những
điều các ngươi nghe và thấy:
Kẻ mù được
thấy, kẻ què được đi, kẻ phung
được sạch, kẻ điếc được
nghe, kẻ chết được sống lại, kẻ
khó khăn được nghe giảng Tin Lành.
Phước cho ai chẳng
vấp phạm v́ cớ Ta!
Khi họ ra về, Đức
Chúa Jêsus mới Phán về việc Giăng cho đoàn dân
nghe, rằng: Các ngươi đă đi
xem chi trong đồng vắng? Có phải xem cây sậy bị
gió rung chăng?
Các ngươi xem cái chi nữa?
Có phải xem người mặc áo tốt đẹp
chăng? Ḱa, những người mặc áo tốt đẹp
th́ ở trong đền vua.
Nhưng các ngươi lại
đi xem cái chi nữa? Có phải là xem đấng Tiên tri
(prophet) chăng?
Phải, Ta nói cùng các
ngươi, cũng hơn đấng Tiên tri nữa.
Ấy v́ người
đó mà có chép rằng: Nầy, Ta sai Sứ giả Ta đến
trước mặt con, đặng dọn đường
sẵn cho con đi.
Quả thật, Ta nói cùng
các ngươi, trong những người bởi đờn
bà sanh ra, không có ai được tôn trọng hơn
Giăng Báp-tit, nhưng mà kẻ rất nhỏ hèn trong
nước Thiên đàng c̣n được tôn trọng
hơn người.”
Điều
này đă được ứng nghiệm. Điều này
đă xảy ra. Nó đă qua rồi. Nhưng bây giờ hăy
chú ư trong Ma-la-chi 4:1-6,
“Và nầy, ngày đến, cháy
như ḷ lửa. Mọi kẻ kiêu ngạo, mọi kẻ
làm sự gian ác sẽ như rơm cỏ, Đức
Giê-hô-va Vạn quân Phán: Ngày ấy đến, thiêu đốt
chúng nó, chẳng để lại cho chúng nó rễ hoặc
nhành.
Nhưng về phần các
ngươi là kẻ kính sợ Danh Ta, th́ Mặt Trời
Công Chính sẽ mọc lên cho (the Sun of Righteousness arise with...),
trong cánh (tia sáng) nó có sự chữa bịnh, các ngươi
sẽ đi ra và nhảy nhót như ḅ tơ của chuồng.
Các ngươi sẽ giày đạp
những kẻ ác, v́ trong ngày ta làm, chúng nó sẽ như là
tro dưới bàn chơn các ngươi. Đức Giê-hô-va
Vạn quân Phán vậy.
Các ngươi khá nhớ lại
luật pháp của đầy tớ Ta là Môi-se, mà Ta đă
truyền cho nó tại Hô-rép, tức là những lệ luật
và mạng lịnh (the statutes and judgments) cho cả
Y-sơ-ra-ên.
Nầy, Ta sẽ sai đấng
Tiên tri Ê-li đến cùng các ngươi trước ngày lớn
và đáng sợ (the great and dreadful day) của Đức Giê-hô-va
chưa đến.
Người sẽ làm cho ḷng
(các) Cha (fathers) trở lại cùng con cái, ḷng con cái trở lại
cùng (các bậc) Cha (fathers), kẻo Ta đến lấy sự
rủa sả mà đánh đất này (come and smite the earth
with a curse).”
Ngay sau khi sự xuất hiện
của vị Ê-li NẦY, trái đất sẽ bị làm sạch
bằng lửa (be cleansed by fire) và kẻ gian ác sẽ bị
đốt thành tro bụi. Dĩ nhiên điều này CHƯA
xảy ra vào thời đại của Giăng (vị Ê-li
trong thời của người).
Thánh
Linh Chúa dự ngôn về sự xuất hiện của vị
Sứ giả trong Ma-la-chi 3:1 (tức Giăng) chỉ là lặp
lại Lời Tiên tri trước đó của Ngài trong
Ê-sai 40:3 hồi 3 thế kỷ trước mà thôi.
“Có tiếng
kêu trong đồng vắng. Hăy mở đường cho
Đức Giê-hô-va; Hăy ban bằng đường cái trong
đất hoang cho Đức Chúa Trời chúng ta.”
Bấy giờ, Giăng, bởi
Thánh Linh, đă phát ra “tiếng kêu” mà Ê-sai và Ma-la-chi đă dự
ngôn, được chép trong Ma-thi-ơ 3:3,
“Ấy là về Giăng Báp-tit mà
đấng Tiên tri Ê-sai đă báo trước rằng: Có tiếng
kêu trong đồng vắng, hăy dọn đường Chúa,
ban bằng các nẻo Ngài.”
V́
vậy, dựa theo những khúc Kinh Thánh trên chúng ta có thể
thấy rơ rằng vị Tiên tri trong Ma-la-chi 3 là Giăng chớ
KHÔNG PHẢI là đấng Tiên tri trong Ma-la-chi 4, mặc dầu
trên thực tế là cả hai, Giăng và vị Tiên tri ngày
sau rốt (last day prophet) đều có chung một Thần
Linh đă từng giáng trên ḿnh Ê-li.
327-1 Bây giờ vị Sứ giả của
Ma-la-chi 4 và Khải huyền 10:7 sẽ thực hiện hai
công việc: Thứ nhất, theo như Ma-la-chi 4, người
sẽ đem ḷng con cái trở lại cùng những người
Cha (Sứ đồ). Thứ hai, người sẽ bày tỏ
sự huyền bí về Bảy tiếng sấm (reveal the
mysteries of the seven thunders) trong Khải huyền 10 tức là sự
mặc khải chứa đựng trong Bảy ấn
(revelations contained in the seven seals). Sự thật là chính v́ “những
chân lư mầu nhiệm huyền bí” được khải
thị cách thần kỳ (Divinely revealed mystery truths) này sẽ
khiến ḷng con cái trở về cùng với những người
Cha thời lễ Ngũ tuần (Pentecostal or Apostolic fathers,
các Sứ đồ). Đúng như thế.
328-1 Nhưng cũng hăy để ư
đến điều này nữa. Vị Tiên tri Sứ giả
(prophet messenger) này sẽ mang bản tính và có phong cách (nature
and manners) giống như Ê-li và Giăng. T́nh trạng con
người trong thời vị Tiên tri Sứ giả này sẽ
chẳng khác ǵ trong thời của A-háp và của Giăng. Bởi
v́ “CHỈ CÓ CON CÁI” ḷng họ mới được quay trở
lại, th́ cũng chỉ những người thật sự
là con cái mới chịu lắng nghe mà thôi.
Trong thời A-háp, chỉ t́m
thấy 7.000 người Do-thái là hạt giống thật
(true seed Israelites) mà thôi. Thời đại của Giăng
cũng chỉ có rất ít. Quần chúng cả hai thời
đại trên đều sa vào tà dâm của sự sùng bái thần
tượng (fornication of idolatry).
328 -2 Tôi muốn làm một sự so
sánh nữa giữa vị Tiên tri Sứ giả thời
đại Lao-đi-xê (Laodicean prophet messenger) với
Giăng, là vị Tiên tri Sứ giả đến dọn
đường cho lần đến thứ nhứt của
Chúa Jêsus. Dân sự trong thời Giăng đă từng lầm
tưởng (mistook) người là Đấng Mê-si (the
Messiah). Sách Giăng 1:19-20 chép:
“Nầy là lời chứng của
Giăng, khi dân Giu-đa sai mấy Thầy Tế lễ
(priests), mấy người Lê-vi (Levites) từ thành Giê-ru-sa-lem
đến hỏi người rằng: “Ông là ai? Người
xưng ra (confessed), chẳng chối chi hết, xưng rằng
ḿnh không phải là Đấng Christ.”
Bây giờ vị Tiên tri Sứ
giả của ngày sau rốt (last day prophet messenger) này sẽ
có quyền năng như thế trước mặt Đức
Chúa Trời, và sẽ có nhiều người lầm tưởng
người là Chúa Jêsus.
(Trong
thời sau rốt (end time) sẽ có một thần linh (a
spirit) trong thế gian cám dỗ (seduce) và khiến một số
người tin vào điều đó).
Sách
Ma-thi-ơ 24:24-26 chép:
“V́ nhiều
christ giả và tiên tri giả (false Christs and false prophets) sẽ
dấy lên, làm những dấu lớn, phép lạ (great signs
and wonders); Nếu có thể được th́ họ
cũng đến dỗ dành chính những người
được chọn (deceive the very elect).
Nầy, Ta đă báo
trước cho các ngươi.
Vậy nếu người
ta nói với các ngươi rằng: Nầy, Ngài ở trong
đồng vắng, th́ đừng đi đến; Nầy,
Ngài ở trong nhà (pḥng kín), th́ đừng tin.”
Nhưng
anh em đừng tin điều ấy! Người ấy
chẳng phải là Chúa Jêsus Christ đâu. Người chẳng
phải là Con của Thượng Đế. NGƯỜI
CHỈ LÀ MỘT TRONG NHỮNG NGƯỜI ANH EM, LÀ MỘT
VỊ TIÊN TRI, MỘT SỨ GIẢ, MỘT ĐẦY TỚ
CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI. Người không cần nhận
sự tôn sùng lớn hơn Giăng đă từng nhận
được khi Giăng chỉ là tiếng kêu lên rằng:
“Ta không phải là Ngài, NHƯNG NGÀI SẼ ĐẾN SAU TA.”
328-3 Trước khi chúng ta kết thúc
chương này, là phần bàn về vị Sứ giả thời
đại Lao-đi-xê, chúng ta phải cẩn thận suy xét
đến hai ư tưởng nầy: Trước nhất,
thời đại này sẽ chỉ có MỘT Tiên tri Sứ
giả (ONE Prophet Messenger).
Khải huyền 10:7 chép: “Nhưng đến ngày mà vị
Sứ giả (số ít) thứ bảy cho nghe tiếng ḿnh
và thổi loa.” Chưa có một thời đại nào mà
Chúa ban cho dân sự Ngài hai vị Tiên tri chủ yếu (major
prophets) cùng một lúc. Ngài ban Ê-nóc (một ḿnh); Ngài ban Nô-ê (một
ḿnh); Ngài ban Môi-se (ông là người duy nhất có Lời
Chúa mặc dù người khác cũng nói dự ngôn);
Giăng Báp-tit đến ĐƠN ĐỘC.
Bây giờ, trong ngày sau rốt
nầy phải có một đấng TIÊN TRI (không phải là
một nữ Tiên tri, tuy rằng trong thời đại
ngày nay dường như nhiều phụ nữ có tài ban
phát sự khải thị của Thượng đế
hơn là các đàn ông), và Lời không thể sai lầm
được của Chúa (the infallible Word) có chép rằng
người (vị Tiên tri) này sẽ bày tỏ những
điều huyền bí (reveal the mysteries) cho dân sự thời
sau rốt (the end time people) và đem ḷng con cái trở lại
cùng những người cha (Sứ đồ).
Có
nhiều người cho rằng dân sự của Đức
Chúa Trời nên nhóm họp lại qua sự (chia xẻ) mặc
khải tập thể chung (a collective revelation) mà thôi. Tôi
thách thức quan điểm (statement) đó. Đó là một
giả thuyết (assumption) đơn giản và vô căn cứ,
bất chấp cả Khải huyền 10:7.
Hiện giờ tôi không phủ
nhận rằng sẽ có người nói tiên tri trong thời
đại sau rốt này và chức vụ của họ có
khả năng làm vậy và cũng là đúng đắn. Tôi
không phủ nhận rằng sẽ có các Tiên tri, thậm chí
như trong thời của Phao-lô có “một A-ga-bút, vị
Tiên tri dư ngôn về một nạn đói.” Tôi đồng
ư có điều đó. NHƯNG CĂN CỨ TRÊN LỜI CÓ CHỨNG
CỚ KHÔNG THỂ SAI LẦM ĐƯỢC CỦA LỜI
CHÚA (THE INFALLIBLE EVIDENCE OF THE WORD), TÔI PHỦ NHẬN CÓ
HƠN MỘT VỊ TIÊN TRI SỨ GIẢ CHỦ YẾU SẼ
ĐẾN GIĂI BÀY NHỮNG SỰ MẦU NHIỆM CHỨA
ĐỰNG TRONG LỜI CHÚA VÀ CÓ CHỨC VỤ ĐEM L̉NG
CON CÁI TRỞ VỀ CÙNG CÁC CHA SỨ ĐỒ.
V́ “Chúa đă Phán như vậy”
qua Lời không thể sai lầm (unfailing Words) của Ngài
được đứng vững, sẽ c̣n đứng vững
và sẽ được chứng thực. Chỉ có một
vị Tiên tri Sứ giả cho thời đại này.
Chỉ
dựa trên hiện tượng hành vi căn bản của
loài người, ai cũng biết rằng nếu nhóm nào
càng đông, th́ càng có sự lựa chọn chia rẽ
(divided option) về những điểm kém quan trọng
hơn (lesser points) trên một giáo lư chủ yếu (major
doctrine) nào đó đă từng giữ họ lại với
nhau.
Vậy th́ ai sẽ có quyền
năng của sự không thể sai lầm (the power of
infallibility), là điều sẽ được phục hồi
(be restored) trong thời đại sau rốt này, v́ thời
đại sau rốt này sẽ là giờ tái ra mắt vị
Tân nương của Lời Thuần chính (manifesting the Pure
Word Bride)?
Điều ấy có nghĩa
là một lần nữa chúng ta sẽ được lại
Lời Chúa (the Word) y như nó đă từng được
ban cho một cách hoàn toàn và đă được thấu hiểu
một cách hoàn chỉnh (perfectly given and perfectly understood)
dưới thời Phao-lô.
Tôi sẽ nói cho quư vị biết
ai sẽ nhận được điều này. Đó sẽ
là một vị Tiên tri được minh chứng đầy
đủ (be a prophet as thoroughly vindicated) hoặc thậm chí
được minh chứng đầy đủ hơn bất
cứ một Tiên tri nào trong mọi thời đại từ
thời Ê-nóc cho đến ngày nay. Bởi v́, nếu cần
thiết, người này sẽ có công vụ Tiên tri dự
ngôn tuyệt trần (the capstone prophetic ministry), và Chúa sẽ
đưa người đến. Người sẽ không
cần nói về ḿnh. Chúa sẽ nói thế cho người bằng
tiếng nói của dấu kỳ phép lạ (the voice of the
sign). A-men!
329-1 Ư nghĩ thứ hai phải ấn
sâu vào ḷng chúng ta là Bảy thời đại Hội Thánh
đều khởi đầu bởi linh của kẻ chống
christ (the antichrist spirit) và bởi Thánh Linh (the Holy Spirit) là
Đấng đáng được tôn sùng đời đời.
I Giăng 4:1 chép rằng:
“Hỡi kẻ rất yêu dấu,
chớ tin cậy mọi thần (believe not every spirit),
nhưng hăy thử cho biết xem các thần (try the spirits) có
phải đến bởi Đức Chúa Trời chăng
(are of God): bởi v́ nhiều tiên tri giả (false prophets)
đă hiện ra trong thiên hạ.”
Anh em có nhận diện
được điều đó không? Các thần linh chống
christ với các tiên tri giả vốn là một, nên chúng sẽ
xuất đầu lộ diện qua các tiên tri giả.
Dĩ nhiên sẽ có vị tiên tri giả thật sự (chủ
yếu) (REAL FALSE PROPHET) theo đúng nghĩa của nó
được ghi nhận trong Khải huyền ra đời.
Nhưng trong lúc này, trước khi người này hiện
ra, sẽ có nhiều tiên tri giả (nho nhỏ) xuất hiện.
Ma-thi-ơ 24:23-26 chép:
“Khi ấy, nếu
có ai nói với ngươi rằng: Ḱa Đấng Christ ở
đây, hay là: Ở đó, th́ đừng tin.
V́ nhiều christ giả
(false Christs, kẻ được xức dầu giả,
false anointed ones) và tiên tri giả (false prophets) sẽ dấy
lên, làm những dấu lớn, phép lạ, nếu có thể
được th́ họ cũng đến dỗ dành chính
những người được chọn (the elect).
Nầy, Ta đă bảo
trước cho các ngươi. Vậy nếu người
ta nói với các ngươi rằng: Nầy, Ngài ở trong
đồng vắng, th́ đừng đi đến; Nầy,
Ngài ở trong nhà, th́ đừng tin.”
Những
kẻ tiên tri giả này đă được dự báo cho
chúng ta biết trong nhiều đoạn Kinh Thánh khác sau
đây như:
II Phi-e-rơ 2:1-2,
“Dầu vậy, trong dân chúng
cũng đă có tiên tri giả, và cũng sẽ có Giáo sư
giả (false teachers) trong anh em; Họ sẽ (tự ư) truyền
những đạo dối làm hại (privily bring in damnable
heresies), chối Chúa đă chuộc ḿnh, tự ḿnh chuốc
lấy sự hủy phá th́nh ĺnh. Có nhiều kẻ sẽ
theo họ trong những sự buông tuồng, và Đạo
Thật (the Way of Truth) v́ cớ họ bị gièm pha.”
II Ti-mô-thê 4:3-4 chép:
“V́ sẽ có một thời kia,
người ta không chịu nghe Đạo lành (sound doctrine);
Nhưng v́ họ ham nghe những lời êm tai (having itching
ears), theo tư dục mà nhóm họp các Giáo sư xung quanh
ḿnh, bịt tai không nghe Lẽ Thật,
mà xây hướng về chuyện huyễn (fables).”
Ti-mô-thê 4:1,
“Vả, Đức Thánh Linh Phán tỏ
tường rằng, trong đời sau rốt, có mấy kẻ
sẽ bội đạo (depart from the faith) mà [làm] theo các thần
lừa dối (giving deed to seducing spirits), và đạo lư của
quỷ dữ (doctrines of the devils).”
Bây
giờ trong mọi trường hợp anh em sẽ nhận
thấy rằng tiên tri giả là kẻ ở ngoài Đạo
Chúa (outside the Word). Như chúng tôi đă chứng tỏ cho
anh em thấy rơ chống Đấng Christ có nghĩa là chống
Đạo (chống Lời) (anti-christ means anti-word) cũng
thế, những tiên tri giả (false prophets) đến sửa
đổi làm hư Lời Chúa (perverting the Word), đưa
ra mọi Lời nhằm đặt mục đích ma quỷ
của chúng (giving it a meaning that fits their own devilish ends).
Anh em có khi nào để ư thấy
rằng những kẻ đưa dẫn kẻ khác đi lầm
lạc luôn luôn lợi dụng sự sợ hăi (by fear) ḥng
giữ chặt họ lại với ḿnh không? Họ hù dọa
rằng nếu có người nào không làm theo lời họ,
hoặc có ai bỏ đi, th́ sự huỷ diệt sẽ
đến với những người đó. Họ là tiên
tri giả, v́ một Tiên tri thật (true prophet) sẽ luôn
luôn dẫn dắt người ta đến cùng Lời và kết
chặt người ta vào trong Chúa Jêsus Christ, người sẽ
không bảo ai phải sợ ḿnh hay điều ǵ ḿnh đă
nói, nhưng chỉ khiến ta kính sợ những Lời ǵ
mà Chúa đă Phán (but to fear what the Word says).
Xin
lưu ư là những kẻ này cũng chạy theo đồng
tiền không khác ǵ Giu-đa. Họ xúi anh em bán hết tài sản
và nộp cho họ để phục vụ mưu đồ
của họ. Họ dùng nhiều th́ giờ trên việc
dâng tiền gây quỹ hơn là trên Lời Chúa. Những kẻ
có ư đồ sử dụng các ơn tứ sẽ lạm
dụng một ơn tứ nào đó (make use of a gift) mặc
dù có sự thiên lệch sai lạc trong đó, để
đ̣i hỏi tiền bạc, bất chấp cả Lời
Chúa dạy (neglect the Word), mà vẫn gọi điều
đó là thuộc về Chúa. Vậy mà người ta muốn
đến với họ, chịu đựng được
họ, yểm trợ họ và tin tưởng vào họ, mà
không hề biết rằng đó là con đường dẫn
đến sự chết.
Đúng
vậy, trên đời này đầy dẫy những
người giả mạo trong xác thịt (carnal
impersonators). Trong ngày cuối cùng họ sẽ cố t́nh bắt
chước vị Tiên tri Sứ giả đó. Như bảy
con trai của Sê-va đă bắt chước Phao-lô, tay phù thủy
Si-môn đă bắt chước Phi-e-rơ. Sự giả mạo
của họ sẽ chỉ là thuộc xác thịt mà thôi. Họ
không thể thực hiện (produce) được những
ǵ mà vị Tiên tri thật đang làm.
Khi người (vị Tiên
tri Sứ giả thật) tuyên bố cuộc phục
hưng đă chấm dứt, th́ họ lại rêu rao về
một sự mặc khải lớn khác (a great revelation) rằng
những ǵ mà dân sự đang có là hoàn toàn đúng (exactly
right), và rằng Đức Chúa Trời sẽ c̣n làm nhiều
việc to lớn và kỳ diệu hơn (bigger and more
wonderful things) trong ṿng dân sự, khiến cho dân chúng sẽ
sa vào (fall) điều đó.
Cũng những tiên tri giả
này sẽ tuyên bố rằng v́ Sứ giả ngày sau rốt
này không phải là một nhà thần học (a theologian) nên
không cần nghe lời vị này. Họ không thể thực
hiện được những ǵ mà vị Sứ giả
có thể thực hiện; Họ sẽ không được
Đức Chúa Trời chứng
thực như vị Tiên tri ngày sau rốt đă được
vậy. Nhưng với lời lẽ long trọng và tầm
vóc uy tín toàn cầu, họ sẽ cảnh cáo dân chúng chớ
nghe theo người (Sứ giả) đó, v́ cho rằng những
điều dạy dỗ của người là sai lạc.
Họ quả là cha nào con nấy hành động y như
người Pha-ri-si, là kẻ thuộc về ma qủy, v́ họ
cũng từng phạm thượng cho rằng cả
Giăng và Jêsus đă dạy điều sai lạc (taught
error).
331-1 Vậy tại sao các tiên tri giả
đều chống lại vị Tiên tri thật và bôi nhọ
điều dạy dỗ của người (discredit his
teaching)? Bởi v́ bản chất của họ là như thế
cũng như ông cha họ đă chống nghịch lại
Mi-ca-ên trong thời của A-háp. 400 người bọn họ
đă đồng thanh tương ứng, đều nói
cũng một thứ chuyện mà lừa dối được
thiên hạ. Nhưng chỉ MỘT đấng Tiên tri mà thôi
là đúng đắn, những kẻ khác là sai trật, bởi
v́ Thượng đế chỉ ủy thác mặc khải
cho CHỈ MỘT NGƯỜI mà thôi (God had committed the
revelation to ONLY ONE). Hăy cẩn thận các tiên tri giả (false
prophets) v́ chúng là muông sói tham tàn (ravening wolves).
331-3 Nếu anh em c̣n nghi ngờ điều
này, hăy kêu cầu Thượng đế dùng Thần linh
Ngài đầy dẫy và dẫn dắt anh em, V̀ KẺ
ĐƯỢC TUYỂN CHỌN KHÔNG THỂ BỊ LỪA
GẠT (FOR THE VERY ELECT CANT BE FOOLED). Anh em đă hiểu
điều ấy chưa? Không có người nào có thể
lừa gạt được anh em cả. Chính Phao-lô
cũng không thể qua mắt được ai trong ṿng
người được chọn (any elect) một khi
người có sai lầm. Và trong thời đại Ê-phê-sô
đầu tiên, người được chọn thời
đó không thể nào bị lừa gạt được
v́ họ biết thử những Sứ đồ giả
và tiên tri giả (tried false apostles & prophets), và đă phát hiện
kẻ giả dối (liars) và từng đuổi họ ra
ngoài! Ha-lê-lu-gia! Chiên CỦA NGÀI chỉ nghe Tiếng Ngài và chỉ
theo NGÀI mà thôi. A-men! Tôi tin điều đó.
Thơ cho Thời
đại Hội Thánh Lao-đi-xê
(Khải huyền 3:14-22 / Rev 3:14-22, King
James Version)
14
“Ngươi cũng hăy viết cho Thiên sứ của Hội
Thánh Lao-đi-xê rằng: Nầy là lời phán của Đấng
A-men, Đấng làm chứng thành tín chơn thật, Đấng
làm đầu cội rễ cuộc sáng thế của
Đức Chúa Trời:
15
Ta biết công việc của ngươi; Ngươi không
lạnh cũng không nóng. Ước ǵ ngươi lạnh
hoặc nóng th́ hay!
16 Vậy, v́
ngươi hâm hẩm (lukewarm), không nóng cũng không lạnh,
nên Ta sẽ nhả ngươi ra khỏi miệng Ta (spue
thee out of My mouth).
17 Vả,
ngươi nói: Ta giàu, ta trở nên giàu có (with goods) rồi,
không cần chi nữa; Song ngươi không biết rằng
ḿnh khổ sở, khốn khó, nghèo ngặt, đui mù, và lơa
lồ (wretched, and miserable, and poor, and blind, and naked).
18 Ta khuyên
ngươi hăy mua vàng (gold), thử lửa của Ta, hầu
cho ngươi trở nên giàu có; Mua những áo trắng
(white raiment), hầu cho ngươi được mặc
vào và điều xấu hổ về sự trần truồng
ngươi khỏi lộ ra; Lại ‘dùng’ thuốc xức
mắt đặng thoa mắt ngươi (anoint thine eyes
with eyesalve), hầu cho ngươi thấy được
(may see).
19 Phàm những kẻ
Ta yêu th́ Ta quở trách sửa phạt; Vậy hăy có ḷng sốt
sắng (be zealous), và ăn năn đi.
20 Nầy, Ta đứng
ngoài cửa mà gơ (I stand at the door, and knock); Nếu ai nghe tiếng
Ta mà mở cửa cho (hear & open the door), th́ Ta sẽ vào
cùng người ấy, ăn bữa tối với người, và người với Ta.
21 Kẻ nào thắng
(overcome), Ta sẽ cho ngồi với Ta trên Ngôi Ta (sit with me),
như chính Ta đă thắng và ngồi với Cha Ta trên Ngôi
Ngài (in His throne).
22 Ai có tai, hăy nghe lời
Đức Thánh Linh phán cùng các Hội thánh (He that hath an ear,
let him hear what the Spirit saith unto the churches)!”
Tóm Tắt Các Thời
đại
(A Resume of
the Ages from The 7 Church Ages, pp 366
381)
“Ai có tai, hăy nghe Lời Đức Thánh Linh Phán
cùng các Hội thánh.” Khải thị 3:22.
364.3 Đây là lời cảnh cáo CUỐI
CÙNG (the LAST warning). Sẽ không có lời cảnh cáo nào nữa.
Ngôi báu đă lập xong. Mười hai nền cột
đă đặt xong, đường sá bằng vàng đă
lát xong, cửa làm bằng hột châu khổng lồ đă
dựng lên và tra khớp (hinged). Nàng (Thành thánh) đứng sừng
sững như một ngôi kim tự tháp rất thần kỳ
và huy hoàng. Những Thiên sứ (heavenly beings) dự phần
xây dựng Nàng đang ngắm nh́n nó đến nín thở;
V́ Nàng phát ra tia sáng long lanh của sự vinh hiển (glory)
không thuộc về đất (unearthly). Mỗi khía cạnh
của sự đẹp đẽ (beauty) Nàng đều kể
lên một câu chuyện về ân điển kỳ diệu
và t́nh thương của Chúa Jêsus (amazing grace & Jesus’
love). Nàng là một thành phố chỉ sắm sẵn chó một
dân đă sửa soạn sẵn (a prepared people)* . Nàng chỉ
chờ đợi tiếp đón dân cư (inhabitants) của
Nàng mà thôi, và chẳng bao lâu họ sẽ làm chật ních
đường sá nơi đó với sự vui mừng.
Đúng vậy, đây là lời kêu gọi cảnh cáo cuối
cùng. Chúa Thánh Linh sẽ không c̣n Phán ǵ trong thời đại
nào nữa. V́ các thời đại trước đă qua rồi
(The ages are over). [* Ma-thi-ơ 25:10; Khải 19:7]
365.1 Nhưng
cám ơn Đức Chúa Trời, hiện nay, thời đại
này vẫn c̣n chưa qua đi. Ngài vẫn c̣n kêu gọi. Và sự
kêu gọi của Ngài không những tới tai thuộc linh
(spiritual ears) con người qua Thần linh Ngài, mà một lần
nữa c̣n thông qua một vị Tiên tri trong xứ (a prophet
is in the land). Một lần nữa, Thượng đế
sẽ phơi bày (reveal) chân lư như Ngài đă làm với
Phao-lô.
Trong
ngày tháng của Sứ giả Thứ Bảy (the 7th messenger,
[Khải huyền 10:7]), trong tháng năm của thời
đại Lao-đi-xê, Sứ giả của nó sẽ
phơi bày những điều huyền bí của Đức
Chúa Trời (reveal the mysteries of God) như Ngài đă từng
phơi bày với Phao-lô. Người sẽ lên tiếng, và
hễ ai tiếp nhận đấng Tiên tri v́ là Tiên tri
(receive that prophet), th́ sẽ nhận lănh phần thưởng
ơn phước (receive the beneficent effect) bởi công vụ
(ministry) của đấng Tiên tri đó (Ma-thi-ơ 10:41). Và
những ai nghe theo người sẽ được ban
phước và trở thành một phần tử của Tân
nương (Bride) của ngày sau rốt được nhắc
tới trong Khải huyền 22:17, “Thánh Linh và Vợ mới
(Bride) cùng nói: Hăy đến!”
Hạt
lúa ḿ (Tân nương Giống Lúa thật, the Bride Wheat) mà
đă từng sa vào vũng śnh lầy của (Giáo hội
nghị)
Hiện
giờ họ đang kêu gọi: “Hăy ra khỏi nó, và biệt
ly với nó ngay!” (come out from among her and be yee separate) [Khải
huyền 18:4]. Tiếng kêu gọi đă truyền ra; Tiếng
kêu gào c̣n vang lừng. Tiếng này sẽ c̣n kêu bao lâu? Chúng ta
không biết, nhưng có một điều chúng ta biết
chắc là nó không thể kéo dài được bao lâu nữa,
v́ đây là thời đại sau rốt.
365.2 “Ai có tai (has an ear), hăy nghe (let him
hear) Lời Đức Thánh Linh Phán cùng các Hội thánh!” Chúa
Thánh Linh đă từng lên tiếng (spoken). Mặt trời
đang lặn đă lu mờ dần vào cơi vĩnh viễn
qua các thời đại. Rồi nó sẽ qua đi hết.
Tới khi ấy mới đến với Ngài sẽ trở
nên quá muộn. Nhưng nếu Thần Linh của Ngài có dùng
điểm nào trong một loạt bài giảng này để
đối phó (dealt) với anh em, mong anh em hăy quay về với
Ngài ngay bằng sự ăn năn (repentance) và dâng đời
sống ḿnh (give your life) cho Ngài, để Ngài có thể ban
sự sống đời đời (eternal life) cho anh em qua
Thần Linh Ngài (His Spirit).
TÓM TẮT CÁC THỜI
ĐẠI
Khải thị 3:14-22
366.1 V́ sự nghiên cứu của chúng ta theo cách giải
kinh từng câu (verse by verse exposition) của đoạn Kinh
Thánh nói về Bảy thời đại, chúng ta không lập
một hệ thống lịch sử liên tục của Hội
Thánh như chúng ta cần phải làm. Vậy bây giờ mục
tiêu của chúng ta là dùng chương này, bắt đầu
từ Thời đại Ê-phê-sô, tra cứu qua tất cả
các thời đại của Hội Thánh và lịch sử
của nó, y như Thánh Linh của Thượng đế
đă bày tỏ cho Giăng vậy. Chúng ta sẽ không thêm tài
liệu ǵ mới nhưng chỉ căn cứ vào những
ǵ đă có sẵn.
366.2 Từ sự học hỏi mà chúng ta biết rằng
hầu hết cả sách Khải huyền bị hoàn toàn hiểu
lầm, bởi v́ trước đây chúng ta không biết rằng
từ dùng để nói về và nói đến “Hội Thánh”
trong sách này không phải chỉ dùng để nói về ‘ekklesia’,
‘những người được chọn’ (the elect), ‘Thân
thể Đấng Christ’ (body of Christ), hay ‘Tân nương’
(the bride), nhưng nó được dùng để chỉ về
‘tập thể những người được gọi
là Cơ-đốc nhân’ (Christians), dầu cho họ là thật
(true) hay chỉ là hư danh (nominal). Như tất cả
Y-sơ-ra-ên KHÔNG PHẢI là Y-sơ-ra-ên [thật], cũng thế,
tất cả Cơ-đốc nhân KHÔNG PHẢI là
Cơ-đốc nhân [thật] (As all
Chúng ta biết rằng Hội
Thánh được cấu tạo bởi hai cây nho: Nho thật
và nho giả (the church is made up of two vines, the true and the false).
Hai cây nho được điều động bởi hai
thứ thần linh (motivated by 2 kinds of spirits), một loại
có Thánh Linh c̣n loại kia bị điều khiển bởi
thần linh của kẻ chống christ (the spirit of
antichrist). Cả hai đều tự nhận là được
Chúa biết đến và họ biết về Chúa. Cả
hai tự phụ phát ngôn cho Chúa. Cả hai đều tin một
số Lẽ thật căn bản (basic truths) và bất đồng
trên nhiều quan điểm khác. Và v́ cả hai đều
mang Danh của Chúa, được gọi là Cơ-đốc
đồ (Christ-ians), và bởi sự mang danh như thế
mà công khai thừa nhận có mối liên hệ (claim a
relationship) với Ngài (Chúa gọi đó là hôn ước,
marriage), nay, Chúa buộc họ phải chịu trách nhiệm
với Ngài và v́ vậy mà Ngài phải Phán với mỗi bên.
366.3 Chúng ta học biết thêm rằng hai cây nho này sẽ
phát triển bên nhau cho đến kỳ chung kết của
các thời đại, khi ấy cả hai sẽ trưởng
thành (maturity) và sẵn sàng cho sự gặt hái (harvested). Cây
nho giả (false vine) sẽ không đắc thắng hay tiêu
diệt được cây nho thật (true vine), nhưng rồi,
cây nho thật cũng không đem được cây nho giả
vào mối liên hệ cứu rỗi (saving relationship) với
Chúa Jêsus Christ.
366.4 Chúng ta học được một chân lư diệu
kỳ nhất (the most amazing truth) là Thánh Linh có thể và sẽ
(như mưa) đổ trên (fall upon) cây nho giả của
những tín đồ chưa được tái sanh
(unregenerate false vine Christians) mà có quyền năng biểu hiện
nhiều dấu kỳ và phép lạ, y như Giu-đa đă
từng có một công vụ trong Thánh Linh, nhưng vẫn bị
kể là ma quỷ (devil).
366.5 Dựa vào những nguyên lư (principles) trên, chúng ta
bắt đầu tra cứu Hội Thánh trải qua Bảy
Thời đại (seven ages). Hội Thánh đă ra đời
vào lễ Ngũ tuần (Pentecost). Như A-đam đầu
tiên được ban cho một Tân nương mới từ
chính bàn tay Thượng đế nhưng chỉ giữ
được trinh tiết trong một thời gian ngắn,
và Chúa Jêsus cũng thế, là A-đam sau rốt, được
ban cho một Tân nương [Hội Thánh] trinh tiết mới
mẽ trong dịp lễ Ngũ tuần, nàng cũng đă từng
biệt riêng ḿnh và không bị thất trinh trong một thời
gian.
“Chẳng
ai dám nhập bọn với môn đồ.” (Công vụ
5:13) và “Mỗi ngày Chúa lấy
những kẻ được cứu thêm vào Hội Thánh.”
(Công vụ 2:47).
Sự việc này kéo dài bao lâu
chúng ta không rơ, nhưng có một ngày, như chính Ê-va đă bị
quyến rũ và bị thất trinh (tempted and seduced) cho
Sa-tan, th́ Hội Thánh cũng bị thất trinh (contaminated)
bởi sự xâm nhập của một thần linh của
kẻ chống christ (an antichrist spirit).
“Đó
là thần của kẻ địch lại Đấng
Christ, mà các con đă nghe rằng hầu đến, và hiện
nay đă ở trong thế gian rồi” (1Giăng 4:3).
Và Chúa Jêsus đă buồn
lo về Tân nương Ngài trong thời đại đầu
tiên, “Nhưng
điều Ta trách ngươi, là ngươi đă bỏ
ḷng kính mến [t́nh yêu] ban đầu (first love). Vậy hăy
nhớ lại ngươi đă sa sút từ đâu, hăy
ăn năn (fallen and repent).” (Khải 2:4 5).
Hội Thánh trong thời đại
đầu tiên đă là một người ‘đàn bà sa ngă’
(fallen woman). Như Sa-tan đă chiếm hữu Ê-va trước
hơn A-đam (Satan had gotten to Eve before Adam), nay, Sa-tan
cũng đă quyến rũ được Hội Thánh, Tân
nương của Christ, trước ngày ‘tiệc cưới
của Chiên Con’ (Marriage supper of the Lamb). Điều ǵ đă
len lỏi vào đưa đẩy đến sự sa ngă của
Hội Thánh? Khải huyền 2:6 cho ta biết là v́ “NHỮNG
VIỆC LÀM CỦA THÀNH VIÊN TỔ CHỨC NI-CÔ-LA.” (“THE DEEDS
OF THE NICOLAITANES”, Nico-laitane = anti-laity, một tổ chức
[hàng giáo phẩm] chống giáo dân).
Ngay từ giữa thời
đại đầu tiên người ta đă ĺa bỏ sự
theo đuổi Lời thuần chính của Thượng
đế (following the pure Word of God). Họ ĺa bỏ điều
Thượng đế đ̣i hỏi (God’s demand) Hội
Thánh phải hoàn toàn nhờ cậy Ngài (chỉ nhờ vào
Thượng đế để Ngài làm trọn Lời
Ngài (fulfill His Word) từ đầu chí cuối, ngoài chế
độ quản lư loại người, apart from human
government) mà sa vào chủ nghĩa Nicolaitanism: Là tổ chức
một chế độ quản lư theo y người
(organizing a human government) trong Giáo hội và đặt luật
lệ để kiềm chế giáo dân như các chính phủ
vậy. Họ làm y hệt những ǵ Y-sơ-ra-ên đă làm
(lập chế độ vua chúa). Họ đă xử dụng
chế độ quản lư loại người (human
government) thay v́ áp dụng Lời Chúa (the Word) hay bước
theo Chúa Thánh Linh (the Spirit).
367.1 Thế nên sự chết đă bước vào.
Làm sao chúng ta biết được? V́ trừ ra trong thời
đại đầu tiên, chúng ta đâu có c̣n nghe thấy tiếng
của Thánh Linh cất lên cho tất cả những ai chịu
nghe, như Ngài đă từng mời gọi rằng, “Người
nào thắng Ta sẽ cho hưởng Cây Sự Sống (the
Tree of Life) trong Vườn Địa đàng của Chúa.” Hội
Thánh đă bị đầu độc qúa nặng bởi
cây của sự chết (hay cây nho giả của hệ
phái, the tree of death or the denominational false vine) mà kết cuộc
của nó là hồ lửa. Nhưng bây giờ, tại
đây chẳng có Chê-ru-bin (Thiên sứ trưởng) với
gươm lửa bảo vệ cây sự sống. Bây giờ,
Chúa c̣n chưa rời bỏ Hội Thánh như Ngài đă rời
bỏ vườn Ê-đen. Ôi, không, Ngài lúc nào cũng ở
giữa ṿng Hội Thánh cho đến thời đại
sau cùng. Đến lúc ấy Ngài sẽ kêu gọi tất cả
cùng đến.
367.2 Chúng ta hăy cẩn thận nơi này. Sứ điệp
này cho Thiên sứ của Hội Thánh tại Ê-phê-sô chẳng
phải là một Sứ điệp cho Hội Thánh địa
phương thật sự tại Ê-phê-sô. Nó là một Sứ
điệp cho một THỜI ĐẠI (a Message to the AGE).
Và trong thời đại đó có hạt giống Lẽ thật
(seed of truth) và hạt giống sai lầm (the seed of error) y
như sự mô tả trong thí dụ về lúa ḿ và cỏ
lùng (the parable of wheat & tares): Các thời đại Hội
Thánh là đồng ruộng (field), và trong đó là lúa ḿ và cỏ
lùng. Giáo hội giả (the false church) được thành lập,
họ ư người hóa sự thống trị và Lời
Kinh thánh (humanized the government and the Word), và đối nghịch
cùng Cơ-đốc nhân chân chính.
368.1 Cỏ lùng luôn luôn xanh tốt hơn lúa ḿ hoặc
bất kỳ loại cây trồng (cultivated plant) nào khác. Giáo
hội cỏ lùng (the tare church) phát triển cách nhanh chóng
trong thời đại đầu tiên này. Nhưng Hội
Thánh lúa ḿ (the wheat church) cũng tốt tươi không kém.
Vào thời điểm chung kết
của thời đại đầu tiên, hành động của
tổ chức Ni-cô-la đă phát triển mạnh tại các
Giáo hội cây nho giả địa phương (local false
vine churches) với mục tiêu gieo rắc ảnh hưởng
của nó ra khắp nơi. Ảnh hưởng của nó
đă tác động đến Hội Thánh thật (the true
church), đến nổi những nhân vật khả kính
như Polycarp [giáo phụ] cũng tự xưng họ là
Giám mục (bishops), nhưng chức quyền và danh xưng
đó chẳng có sự căn cứ ǵ theo Lời Kinh thánh
cả.
Cũng trong thời đại
đó, Hội Thánh thật đă đánh mất t́nh yêu ban
đầu (first love). T́nh yêu đó vốn như t́nh yêu của
Tân nương (Bride) đối với Chú Rể (groom) trong
hôn nhân (marriage) và đời sống ân ái trong những tháng
năm đầu mới kết hôn (wedded life). Rồi sau
đó là sự lạnh nhạt của t́nh yêu trọn vẹn
đó và sự hững hờ đối với Chúa.
368.2 Nhưng xin để ư, Khải huyền 2:1 mô tả
Chúa Jêsus ở giữa Hội Thánh Ngài và đang nắm giữ
các Sứ giả (holding the messengers) trong tay hữu của
Ngài. Tuy Tân nương này đă sa ngă (this bride has fallen), tuy Hội
Thánh chung lúc này đă trở thành một sự hỗn hợp
của cái thật và cái giả (the church corporate is now an
admixture of true and false), Ngài vẫn không nỡ ĺa bỏ nó. V́
nó thuộc về Ngài. Căn cứ theo Rô-ma 14:7 9 điều
đó hoàn toàn đúng.
“Vả, chẳng có người nào trong chúng ta v́ chính
ḿnh mà sống.
Cũng chẳng có người nào trong chúng ta v́ chính
ḿnh mà chết, v́ nếu chúng ta sống là sống cho Chúa, và
nếu chúng ta chết, là chết cho Chúa.
Nên chúng ta hoặc sống hoặc chết đều
thuộc về Chúa cả. Đấng Christ đă chết
và sống lại ấy là để làm Chúa kẻ chết
và kẻ sống.”
Trên thập tự giá Ngài
đă mua chuộc CẢ thế gian. Họ thuộc về
Ngài. Ngài là Chúa của kẻ sống và kẻ chết (Ấy
là luận về quyền sở hữu, ownership, KHÔNG PHẢI
mối liên hệ, relationship), Và Ngài có quyền hành động
trên những thân thể có sự sống hay sự chết.
368.3 Những ǵ đă gieo trồng trong Thời đại
đầu tiên sẽ phát triển trong Thời đại
thứ nh́ và trong tất cả các thời đại khác
cho đến lúc trưởng thành và sẵn sàng cho mùa gặt.
Như vậy trong thời đại Si-mẹc nơ, chúng
ta trông đợi sự mở mang và khai triển của lịch
sử Hội Thánh chung qua sự mặc khải của Chúa
Thánh Linh.
368.4 Trong thời đại [thứ 2] này sự thù
ghét của cây nho giả càng tăng nhanh. Họ đă phân rẽ
(câu 9) ḿnh ra khỏi tập thể của cây nho thật. Họ
rời bỏ hàng ngũ. Họ là kẻ lừa dối. Họ
tự xưng những ǵ họ thực ra chẳng phải
thế. Nhưng Chúa có hủy diệt họ không? Không. “Hăy
để mặc chúng và cả hai sẽ đi vào mùa gặt.”
“Nhưng lạy Chúa, chúng nó phải
bị hủy diệt v́ cớ chúng nó đang tàn phá dân sự
Ngài và giết hại họ.”
“Không, hăy để chúng yên.
Nhưng với Tân nương Ta, Ta bảo rằng, ‘Ngươi
hăy trung tín cho đến chết. Yêu kính Ta càng hơn nữa.’”
368.5 Chúng ta biết quả quyết rằng cây nho giả
(the false vine) này là cây nho của Sa-tan (the vine of Satan). Sự
nhóm họp của họ là thuộc về nó (Sa-tan). Họ
nhơn Danh Thượng đế nhóm họp lại và lừa
dối rằng họ thuộc về Chúa Jêsus. Họ giảng
đạo, dạy đạo, hành lễ báp-têm, thờ
phượng, dự các thánh lễ (rites) do Chúa truyền cho
Hội Thánh, tuy vậy họ vẫn không thuộc về Đức
Chúa Trời. Nhưng v́ họ tự xưng là thuộc về
Ngài, Thượng đế sẽ đ̣i họ phải chịu
trách nhiệm với Ngài và trong mỗi thời đại
Ngài đều Phán về và xử với họ.
Họ khiến chúng ta nghĩ
ngay đến Ba-la-am: Là một người có chức vụ
của một vị Tiên tri. Người biết cách thức
để diện kiến Thượng đế (the proper
approach unto God), như thể hiện qua việc biết
dâng của lễ thiêu súc vật tinh sạch (the sacrifice of
the clean beasts). Tuy vậy, người chẳng phải là
TIÊN TRI CỦA LỜI CHÚA chân thật (not a true WORD PROPHET), nhất
là khi Chúa Phán: ‘Chớ nên đi tới chỗ và tôn vinh Ba-lác’,
nhưng người vẫn khăng khăng t́m cách ra đi
v́ cớ ḷng người đă bị lôi cuốn bởi sự
ham mê (lust) của cải và tài vật của Ba-lác. V́ thế,
Chúa cho phép người ra đi.
Ư chỉ trọn vẹn
(perfect will) của Chúa đă nhường chỗ cho ư chỉ
cho phép (permissive will) của Ngài, v́ cớ “ḷng ham muốn” (“heart
desire”) của Ba-la-am. Chúa thật có bảo, “Hăy đi
đi!” Chúa có đổi Ư của Ngài (His Mind) không? Không! Chúa
có đường lối của Ngài (His Way) mặc dầu
Ba-la-am cứ ra đi. Ba-la-am không thể băi bỏ
được ư chỉ của Đức Chúa Trời. Dù
sao Thượng đế vẫn có đường lối
phương cách của Ngài (His Way). Ba-la-am thế nào
cũng là kẻ thua thiệt (loser), v́ người đă
tránh né phớt lờ Lời Chúa (by passed the Word).
Và ngày nay chúng ta cũng mắc
lỗi tương tự như vậy: Lập Nữ Mục
sư (Nữ Truyền đạo, Nữ Giáo sĩ) và lập
Tổ chức loài người trong Giáo hội, đặt
ra Giáo lư giả (Women preachers [Xem I Cô14:34; I Ti 2:12], organization,
false doctrine), v. v... Và người ta thờ phượng
Thượng đế, có sự biểu hiện trong Thánh
Linh (manifesting in the Spirit) và c̣n nhiều điều khác nữa
như Ba-la-am đă làm, tự nhận rằng Thượng
đế đă Phán với họ, kể cả khi sứ mệnh
nhận được (commission received) ngược lại
với sự mặc khải của Lời Kinh thánh.
Tôi không chối căi rằng
Chúa có thể đă Phán cùng họ, nhưng đó chỉ giống
như lúc Ngài đă Phán cùng Ba-la-am lần thứ hai mà thôi. Vả,
Ngài biết rằng Ba-la-am ham muốn tư dục của
ḷng ḿnh hơn là làm theo Lời của Ngài và Ngài đă ban
điều đó cho người, nhưng rồi cuối
cùng sự việc vẫn phải xảy ra theo đường
lối RIÊNG CỦA NGÀI (HIS OWN way); Ngày nay cũng vậy,
Chúa cho phép họ cứ làm theo tư dục ḷng ḿnh v́ họ
đă khước từ Lời Chúa. NHƯNG DẦU SAO Ư MUỐN
CỦA THƯỢNG ĐẾ CŨNG PHẢI ĐƯỢC
NÊN. (BUT THE WILL OF GOD WILL BE DONE REGARDLESS) A-men!
Tôi hy vọng anh em thấy
được điều này. Nó sẽ không những làm
sáng tỏ hầu hết những ǵ đă xảy ra trong các
thời đại, đặc biệt là nó c̣n giúp ta hiểu
biết tại sao trong thời đại sau rốt này, một
thời đại tuy có rất nhiều biểu hiện và
ân phước bề ngoài (external blessing) mà cả thời
đại này lại rất chống nghịch với ‘Ư chỉ
được Mặc khải qua Lời’ của Thượng
đế (‘Word Revealed Will’ of God).
369.1 Nếu từng có một thời đại nào
nhận lănh một Sứ điệp vừa lớn tiếng
vừa lại rơ ràng th́ nó phải là thời đại này.
Đó là sự thật của Cựu ước trong quá khứ
và hiện tại, “Con trai của người đàn bà nô lệ
(bondwoman) hành hại (will distress) con trai của người
đàn bà tự do (free woman) đến khi con trai của
người đàn bà nô lệ bị đuổi đi (cast
out).” Điều ấy cho ta biết rằng sự thù nghịch
(hatred) và phạm thượng (blasphemy) của Sa-tan nghịch
cùng Cơ-đốc nhân thật (against the true Christian) sẽ
được thật hiện qua một nhóm tín đồ
Cơ-đốc giả, hư danh (nominal, false Christians) và
điều này sẽ gia tăng cho đến chừng Chúa
nhổ tận gốc cây nho giả vào lúc kết thúc của
thời đại Lao-đi-xê.
369.2 Thời đại thứ 3 đă được
tiết lộ bởi Thánh Linh của sự Tiên tri (the
Spirit of prophecy) là Giáo hội thuộc thể (the worldly
church) sẽ nhận chủ nghĩa tổ chức Ni-cô-la*
như một giáo lư (doctrine). [ * NicoLaitane = Anti Laity, cho nên
Nicolaitanism là một chủ nghĩa chống giáo dân, tổ
chức Ni-cô-la là một chế độ do hàng giáo phẩm
chuyên chính].
Sự xa rời giữa hàng
giáo phẩm với giáo dân (the separation of the clergy from the
laity) diễn biến từ chức vụ Trưởng lăo
theo đúng chân lư Kinh Thánh (Biblical truth, là kẻ chăn các bầy
chiên tại địa phương) vốn nên cai quản bầy
chiên bằng Lời Chúa, mà sa vào ‘việc làm của tổ
chức Ni-cô-la’, là chỗ mà hàng giáo phẩm đặt ḿnh
họ vào từng cấp bậc trên kẻ khác, là điều
mà chẳng dựa trên khuôn mẫu Kinh Thánh dạy
(unscriptural formula), thậm chí c̣n đổi nó ra thành chế
độ Tế lễ (Cha Linh mục, priesthood) đặt
để nhân viên thánh chức (hàng giáo phẩm, Giáo sĩ)
đứng giữa người và Thượng đế,
và dành cho họ một số đặc quyền trong khi
đó lại từ chối các quyền lợi mà Thượng
đế đă ban cho các tín đồ thường. Đây
là một sự lạm quyền (usurpation).
Trong thời đại này,
nó đă trở thành một giáo lư và được lập
thành luật trong Hội Thánh như là lời quả quyết
của Thượng đế (the assured word of God), v́ thế
giáo lư này là chống christ vậy (the doctrine was antichrist).
370.1 V́ cớ chế độ quản lư loài người
(human government) là thuần chính trị và giản dị, nên
Giáo hội cũng tham gia chính trị. Sự tham gia này
được cổ vơ bởi một hoàng đế độc
tài (dictator emperor), kẻ đă liên kết chính trị Giáo hội
(church politics) với chính trị quốc gia (state politics) mà
thành lập Giáo hội giả (the false church, tà giáo của
Sa-tan, Satan’s false religion) bằng vũ lực như là một
tôn giáo chân chính hợp pháp (true religion). Và qua các sắc lệnh
của các đời Hoàng đế, chúng ta thấy Giáo hội
giả có thể nhờ vào quyền lực quốc gia (state
power) mà tiêu diệt cây nho thật càng kịch liệt
hơn.
370.2 Tiếc thay cây nho thật không phải thật sự
miễn dịch khỏi tín điều này. Nói như thế
tôi không có ư ám chỉ cây nho thật có dự phần xây dựng
ư niệm chế độ Ni-cô-la thành một giáo điều.
Không. Nhưng con sâu nhỏ của sự chết (little worm
of death) này cứ bám chặt vào cây nho thật mà hút nhựa,
hy vọng rằng nó có thể sa ngă.
Trong ṿng Hội Thánh thật
(true church), nhiều người mà Chúa đă kêu gọi làm
Giám mục (overseers) vẫn giữ danh xưng này nhưng lại
hơi vượt qua trách nhiệm địa phương
của nó (just a local responsibility). Đó chẳng phải là sự
hiểu biết rơ ràng của Phao-lô đối với vấn
đề c̣n tồn tại trong Hội Thánh vào thời
đó. V́ Phao-lô từng nói, “Các hội đó v́ cớ tôi (in
me) mà ngợi khen Đức Chúa Trời” (Ga-la-ti 1:24). Bất
luận Phao-lô có quyền hành ǵ, ông vẫn hướng mọi
người nh́n về Chúa là Đấng có mọi thứ
quyền phép. Nhưng hàng giáo phẩm lại luôn t́m kiếm
sự Lănh đạo thiêng liêng CỘNG VỚI CỦA CON
NGƯỜI (Divine Leadership PLUS HUMAN), và bởi việc hay
dành vinh dự cho nơi không thích ứng, chúng ta biết rằng
Hội Thánh thật đă bị làm ô nhiễm bởi chủ
nghĩa nhân văn (was spotted with humanism).
Với sự thành lập Chế
độ Ni-cô-la (Nicolaitanism): Có sự truyền ngôi thánh chức
(hàng giáo phẩm), tấn phong Mục sư và bầu cử
lựa người Truyền đạo, (apostolic
succession placed ministers pastors voted in) v. v... Bấy giờ,
Giáo hội giả chỉ cần tiến thêm một bước
để sa vào chủ nghĩa Ba-la-am (Balaamism). Bước
thứ nh́ dẫn đến vực thẳm của Sa-tan
(depth of Satan) hiện giờ cũng đang được
xúc tiến toàn diện.
370.3 Bước thứ hai này là Giáo lư Ba-la-am,
(được mô tả trong Khải huyền 2:14) mà
Ba-la-am dạy cho Ba-lác gài bẫy con cái của Y-sơ-ra-ên
qua một ‘Hội nghị Liên hiệp’ (united meeting). Tại
nơi đó quan khách sẽ làm hai điều ngược với
Lời của Thượng đế. Anh em biết rằng
Ba-lác cần sự giúp đỡ để giữ vững
nước ḿnh. Người cầu hỏi nhân vật lănh
đạo tinh thần có uy thế nhất (the most dominant
spiritual figure) thời đó là Ba-la-am. Ba-la-am chỉ cho
người cách gài bẫy và tận diệt Y-sơ-ra-ên.
Trước tiên người gợi ư rằng mọi
người họp chung lại và bàn luận với nhau,
cùng ăn uống chung và giải quyết chung mọi sự.
Rồi sau đó, sự hiểu biết nhau cần nối
tiếp lâu dài. Một khi anh em đạt tới điểm
ấy, anh em có thể tiến tới thêm từ đó.
Bước kế tiếp sẽ là ‘Thờ phượng
Chung’ với nhau (worshipping together), và dĩ nhiên, với một
áp lực nhẹ từ phía chủ thường có thể
khiến khách tiến xa hơn điều họ dự
định.
Bây giờ điều đó
không những chỉ xảy ra với Hội Thánh của Đức
Chúa Trời trong thời Cựu ước nhưng nó
cũng xảy ra với Hội Thánh thời Tân ước
nữa. Số là có một Hoàng đế, giống trường
hợp Ba-lác cần sự giúp đỡ để củng
cố vương quốc ḿnh. Cho nên
Có nhiều Cơ-đốc
nhân, cả chân chính lẫn hư danh (true & nominal), đều
đến với nhau do lời mời của
Nhưng đối với những
ai c̣n ở lại,
Thay v́ thức ăn và nhất
là Lời Chúa là điều mà con người thật sự
cần đến, họ chỉ nhận được
các tín điều (creeds), giáo điễu (dogmas) và nghi lễ
(rituals) mà nhà nước đă áp đặt cho. Và tệ
hơn hết là: Họ tin nhận ‘Ba Chúa’ với ba liên danh
xưng thay v́ Một Chúa Thật (three gods with the triple
compound name of the One True God), và Lễ báp-têm bằng nước
trong Danh của Đức Chúa Jêsus Christ (baptism in the Name of
the Lord Jesus Christ, Công vụ 2:23; 8:12,16; 10:48) bị thay thế
bằng lễ báp-têm ngoại giáo trong ba xưng hô [Cha, Con,
Linh] (pagan baptism of three titles).
371 1 Những người tín đồ thật (real
believers) chẳng nên đi đến nơi đó. Họ
đă đánh mất hầu hết Lẽ thật, và bây giờ
cũng vậy, họ sẽ đánh mất sự hiểu
biết về bổn tánh Thân vị (Godhead) của Đức
Chúa Trời và sẽ vô hiệu
hóa lễ báp-têm bằng nước bởi sự lẫn lộn
các tên với các xưng hô trong khi làm lễ (forfeit names for
titles in water baptism)!
371.2 Bây giờ hăy xem xét thật cẩn thận giáo
lư Ba-la-am. Trước hết hăy lưu ư rằng nó là thủ
đoạn có tính toán của một chế độ thánh
chức bại hoại (deliberate maneuver of a corrupt clergy) bó buộc
người ta vào với họ, bằng cách cố ư hướng
dẫn người ta sa vào tội vô tín (sin of unbelief).
Giáo lư của tổ chức
Ni-cô-la (Nicolaitane doctrine) là sự bại hoại của chế
độ thánh chức (the corruption of the clergy) v́ họ t́m
kiếm thế lực chính trị cho chính ḿnh; Trong khi
đó chủ nghĩa Ba-la-am là sự qui phục người
ta vào hệ thống tín điều và thờ phượng
(their system of creed & worship) đặng bó buộc họ lại.
Bây giờ hăy xem xét kỹ
điểm này. Điều ǵ đă bó buộc người
ta vào Giáo hội hư danh (the nominal church) lại đồng
thời phá hủy đời họ? Ấy là bởi các tín
điều và giáo lư đă biến thành giáo điều (chủ
nghĩa) của Giáo hội (the creeds and dogmas formed into church
tenets). Ấy là giáo lư của Giáo hội Công giáo La-mă (the
doctrine of the Roman Catholic Church). Họ chẳng được
ban cho thức ăn thật là Lời (the true food, the Word). Họ
chỉ nhận được thức ăn đến từ
sự thờ cúng thần tượng, ấy là ngoại
giáo Ba-by-lôn được gói ghém trong ngôn từ Cơ-đốc
giáo (Babylonian paganism wrapped up in Christian terminology).
Cùng
một loại thần linh và giáo lư (same spirit and doctrine) này
cũng xuất hiện ngay giữa cả khối Tân giáo
(Tin Lành, Protestants) và nó được mệnh danh là HỆ
PHÁI (DENOMINATION).
Chế
độ Ni-cô-la là tổ chức loài người, ư người
hóa sự lănh đạo trong Hội thánh (Nicolaitanism is
organization, humanizing the leadership of the church) nhằm thay thế
Chúa Thánh Linh.
Chủ nghĩa Ba-la-am là Chủ
nghĩa hệ phái (denominationalism), giữ lấy điều
lệ Giáo hội (takes the church manual) thay v́ Lời Kinh thánh.
Đến giờ phút này, nhiều
dân sự của Đức Chúa Trời vẫn c̣n bị mắc
lưới trong chủ nghĩa hệ phái, và Chúa đang gào
thét với họ, “Hăy ra khỏi nó [bà dâm phụ], hỡi
dân sự của Ta, chớ để con dự phần với
tội lỗi của nó, và con không nhận lănh tai vạ của
nó” [Khải 18:4]. Anh em thấy rơ là nhiều người c̣n
xem thường (ignorant) điều này. Nhưng nếu sự
cất lên (rapture) xảy ra giờ này, th́ sự ngu dốt
(ignorance) này không c̣n là cớ để chống án trước
sự Phán xét của Thượng đế (no court of appeal
from the judgment of God) chỉ tại v́ họ đă nhập nhầm
hàng ngũ (being in the wrong ranks)!
372.1 Hàng giáo phẩm (clergy) tự lập họ lên cấp
bậc trên từng cấp bậc cho đến khi họ
được cầm đầu bởi một vị thủ
lănh là một biểu tượng của thần linh chống
christ, bất kể nó có tốt đẹp và cần thiết
cách mấy đi nữa, nó cũng chẳng qua là lư luận
loại người (human reasoning) đang chiếm chỗ của
Lời Chúa mà thôi. Bất kỳ người nào c̣n ở
trong các “tổ chức hệ phái” (organized denominations) là c̣n
nằm trong một “hệ thống chống christ” (an
antichrist system). Bây giờ hăy cho tôi tŕnh bày điều này và
nói cách thẳng thắn. TÔI KHÔNG ĐỐI NGHỊCH VỚI
DÂN SỰ. TÔI CHỈ ĐỐI NGHỊCH VỚI HỆ THỐNG
ẤY.
372.2 Với sự liên hiệp giữa nhà nước
và Giáo hội, chắc chắn dẫn đến các Thời
đại Hắc ám (the Dark Ages). Đúng thế, gần
1.000 năm, Giáo hội đă sa vào vực sâu của sự
tối tăm và đă trải qua các vực sâu của
Sa-tan. Khi bất kỳ dân có đạo nào đi theo (any
religious people embrace) chủ nghĩa Nicolaitan và Ba-la-am, và lại
có cả quyền thế chính trị, tài chánh và vũ lực
để bảo vệ nó th́ chỉ c̣n có hướng
đi duy nhất họ có thể đi tới.
Hướng đi đó nằm
ngay trong giáo lư Giê-sa-bên (Jezebel doctrine). Bây giờ tại sao
chúng ta lại nói như thế? Bởi v́ như chúng tôi
đă đề cập đến trong sự học hỏi
về thời đại thứ 4 rằng Giê-sa-bên là một
người [ngoại bang] Si-đôn, con gái của Ết-ba-anh
là vua tế lễ cho thần Át-tạt-tê. Ông ta là kẻ giết
người. Người đàn bà này lấy vua A-háp (vua của
Y-sơ-ra-ên) v́ mục đích chính trị. Bà ta sau đó
tước đoạt tôn giáo của họ và giết chết
các người Lê-vi, và lập lên nhiều miếu là nơi
mà bà ta khiến dân sự thờ thần Át-tạt-tê (thần
Vệ nữ, Venus) và thần Ba-anh (thần Mặt trời,
Sun god). Bà lập khuôn phép dạy dỗ (formulated the teaching)
và lập Thầy Tế lễ dạy nó, và buộc họ
t́m cách khiến dân chúng phải chấp nhận nó.
Tại
đây anh em có thấy rơ Giáo hội hư danh (the nominal
church) đă trở nên thế nào trong Thời đại Hắc
ám. Họ hoàn toàn bỏ qua Lời Chúa ngoại trừ chỉ
c̣n giữ các tên với cách xưng hô của ngôi vị Đức
Chúa Trời (names and titles of Godhead) và vài nguyên tắc Kinh
Thánh (Scriptural principles) mà thôi. Họ đảo ngược
(twisted) những ǵ họ lấy ra từ Kinh thánh bằng
cách thay đổi ư nghiă của nó.
Học viện Giám mục của
họ (college of bishops), v. v... Biên soạn rất nhiều bộ
luận án (vast treatises), các vị Giáo hoàng (popes) của họ
tuyên bố ḿnh là vô ngộ (không thể sai lầm được,
infallible) và cho rằng họ nhận được sự
mặc khải từ Thượng đế và Phán như
chính Đức Chúa Trời Phán với con người. Tất
cả những điều này được truyền dạy
cho các Cha Linh mục (Thầy Tế lễ, priests) và lợi
dụng sự sợ hăi mà làm cho dân chúng tin điều
đó. Ai không quy phục đều bị xử tử hoặc
bị dứt phép thông công (excommunication) là điều nặng
nề hơn cái chết.
Lúc bấy giờ Giáo hội
đă bị tiếng nói cường quyền (the assured
voice) chiếm hữu, họ say sưa với quyền thế
mà uống máu của những người tử đạo
(martyrs) cho đến chừng tất cả Cơ-đốc
nhân chân chính đều bị tận diệt (exterminated), tại
đó rất khó có Lời Chúa nào c̣n sót lại, và sự biểu
hiệu của Thánh Linh cũng rất hiếm.
Nhưng cây nho thật vẫn
chống chọi và sống c̣n (struggled and survived). Chúa thật
là thành tín với Bầy chiên bé nhỏ (faithful to the little
Flock), dầu cho La-mă (Rome) có thể làm ǵ đến thân thể
họ (bodies), nhưng La-mă không thể giết được
Thần linh (Spirit) ở trong họ, v́ họ c̣n có ánh sáng của
Chân lư (light of the Truth) chiếu rọi, vẫn được
yểm trợ bởi Thánh Linh và quyền năng của
Ngài (backed by the Holy Ghost and power).
373.1 Đây là chỗ tốt để ta có một sự
quan sát rất sáng tỏ. Hăy nh́n đây. Công việc và giáo lư
của [chế độ tổ chức] Ni-cô-la, giáo lư của
[chủ nghĩa hệ phái] Ba-la-am, và sự dạy dỗ của
nữ tiên tri giả Giê-sa-bên (false prophetess Jezebel), không hóa ra
ba thần linh hoặc tạo ra ba nguyên tắc thuộc
linh. Nhưng ba điều này chẳng qua là biểu hiện
đa dạng (various manifestations) của cùng một thần
linh đi từ một vực sâu này đến một vực
sâu càng hơn kia.
Tóm lại nó là ǵ, là thần
linh chống christ của sự tổ chức (the antichrist
spirit of organization) [vận hành] trong ba giai đoạn khác
nhau. Sau khi hàng giáo phẩm đă tách ḿnh ra [xa rời quần
chúng] và đă tổ chức hóa chính ḿnh họ, họ lại
đàn áp (oppressed) dân chúng cũng bằng cách dẫn
đưa và bó buộc họ vào trong tổ chức (binding
them to organization).
Tổ chức này được
lập ra dựa trên các tín điều và giáo điều thần
học (creeds and dogma) mà họ đă dạy cho dân sự
thay v́ theo Lời thuần chính của Thượng đế
(the pure Word of God). Nghi thức và thánh lễ (Ritual and ceremony)
được phô bày càng hơn trong lúc thờ phượng
(worship), và chẳng bao lâu cả hệ thống này đă trở
thành một thế lực hung bạo và tối tăm, biết
tận dụng ưu thế ngôn luận tôn giáo và sức mạnh
thực sự của ḿnh mà khống chế tất cả.
Nó đă nhận lănh sức lực (energy) từ lời tiên
tri giả (false prophecies) của nó chớ không phải từ
Lời của Đức Chúa Trời. Bấy giờ nó
đă tuyệt đối là chống christ (anti Christ) rồi
mặc dù nó có nhơn Danh Đấng Christ mà đến.
373.2 Sau một khoảng thời gian dai dẳng trong
thời mà dường như Chân lư chắc phải chết
mất, người ta bắt đầu chống đối
lại sự bại hoại của Giáo hội Công giáo
La-mă v́ cớ họ không thể nào tưởng tượng
được rằng Thượng đế c̣n có thể
ở cùng với sự dạy dỗ và hành vi như thế.
Những sự chống đối (protests) này, hoặc
không được quan tâm đến, hoặc bị tàn lụi
v́ thất bại không gây được sự chú ư, hoặc
bị dẹp tan bởi La-mă.
Nhưng lúc ấy, bởi
ơn điển tối cao (sovereign grace) của Thượng
đế Ngài đă sai một Sứ giả tên là Martin
Luther để bắt đầu một cuộc Cải chánh
(reformation). Ông làm việc trong bối cảnh mà Giáo hội
Công giáo La-mă đă nhận lấy quá nhiều sợi dây
tḥng lọng để tự treo cổ ḿnh. V́ vậy khi
Luther giảng về sự xưng công b́nh bởi đức
tin (justification by faith), cây nho thật lần đầu tiên
trong nhiều thế kỷ bắt đầu tăng
trưởng một cách khả quan.
V́
Giáo hội hư danh (the nominal church) đă từng
nương tựa vào quyền lực quốc gia (state
power), th́ bây giờ quyền lực quốc gia lại bắt
đầu đối nghịch với nó. Đây là chỗ
mà Luther đă mắc phạm lỗi lầm, và cũng là
điều mà nhiều tín đồ thật đă mắc
phạm. Họ chịu cho nhà nước phụ cấp họ.
Cho nên thời đại ấy không vươn cao lên trong Lời
Chúa được bao nhiêu.
Cảm tạ Chúa, dù sao nó
cũng đă từng cố sức vươn lên rồi,
nhưng v́ cớ nó quá độ dựa trên quyền thế
chính trị (political power), thời đại ấy đă bị
kết thúc bởi sự lập tổ chức (ended in
organization), mặc dù chính nhóm người [Cải chánh] trong
thế hệ Luther đă từng phân rẽ khỏi cây nho
giả (false vine), bấy giờ lại quay về mà trở
nên một “con gái (tà dâm)” của “(bà mẹ) dâm phụ (the
harlot)” v́ nàng đă trở về lại với chủ
nghĩa [tổ chức/chế độ] của Ni-cô-la và
chủ nghĩa [hệ phái] của Ba-la-am.
Trong kỷ nguyên này đầy
những vết thương của nhiều bè phái (factions)
trong ṿng họ, và để chứng tỏ họ đă xa
rời ḍng giống thật (true seed) biết bao nhiêu, ta chỉ
cần đọc sơ lịch sử là sẽ thấy thể
nào họ bắt bớ lẫn nhau (persecuted each other), kể
cả đưa đến chỗ chết trong một số
trường hợp. Dầu vậy vẫn có một số
người trong ṿng họ [là giống thật], cũng vậy,
trong mỗi một thời đại đều luôn luôn
có.
374.1 Chúng ta vui mừng cho thời đại [thứ
5] này về một điều là cuộc cải chánh
(reformation) đă khởi đầu. Nó không phải là sự
phục sinh (resurrection) nhưng chỉ là một sự cải
cách, cũng chẳng phải là một sự phục hồi
(restoration). Hạt giống Lúa ḿ (Thật) đă chết tại
[Giáo hội nghị] Nicaea c̣n phải bị mục nát
(rotted) trong các thời đại Hắc ám (Dark Ages), bây giờ
lại được đâm chồi (shoot) của chân lư
báo hiệu rằng sẽ có một ngày trong tương lại,
vào giai đoạn cuối của Thời đại
Lao-đi-xê, ngay trước khi Chúa Jêsus tái lâm, Hội Thánh sẽ
trổ bông lại, quay trở về làm “Giống Lúa ḿ Tân
nương” (being a Wheat Seed Bride), trong khi đó cỏ lùng sẽ
bị gặt và đốt trong ḷ lửa!
374.2 Kể từ Thời đại thứ 5 đă
mang đến công cuộc phổ biến Lời Kinh thánh
cách rộng lớn qua việc ấn loát và Thời đại
thứ 6 lại biết nhanh chóng lợi dụng ưu thế
thời trước. Thời đại này là giai đoạn
thứ nh́ của sự phục hồi (2nd stage of the
restoration) và như chúng ta đă đề cập trước
đó là thời đại đâm nhị trổ hoa (tassel
age). Giáo dục rất đầy đủ.
Đây là thời đại
của những người có học thức (intellectual
men) yêu kính Chúa và chịu phục vụ Ngài. Có vô số nhà
Truyền giáo (Missionaries) và Lời Chúa được gieo ra
khắp thế giới (the Word spread over the world). Đó là thời
đại của t́nh thương huynh đệ (age of
brotherly love), và là một thời đại của cánh cửa
rộng mở (age of the open door). Nó là thời đại sau
cùng tồn tại một thời gian dài, và kế đến
là Thời đại Lao-đi-xê, là một thời đại
ngắn ngủi.
374.3 Cây nho thật đă mọc sum sê (the true vine
flourished) trong thời đại này hơn bất cứ thời
đại nào khác theo sự quan sát về những con số
tại bản xứ hay nơi hải ngoại.
Thời đại này đem
nhiều con người thánh thiện (holy men) ra tiền tuyến.
Cây nho thật lan ra (the true vine spread) và cây nho giả rút lại
(the false vine receded). Tại nơi nào cây nho thật đi
đến Chúa ban cho nguồn sáng, sức sống và sự
vui mừng (light, life and happiness).
Cây nho giả đă lộ diện
cho ta thấy rơ nó vốn là: Tối tăm, khổ sở,
nghèo nàn, dốt nát và chết chóc (darkness, misery, poverty,
illiteracy and death). Và như cây nho giả trong những năm
có quyền thế không thể nào hủy diệt được
cây nho thật, cây nho thật bây giờ cũng không thể
nào dẫn dắt cây nho giả đến với Chúa Jêsus
được. Nhưng cây nho giả đă tự củng
cố bản thân, chờ đợi đến phần
chót của thời đại sau rốt là khi mà nó sẽ thắng
cuộc thu phục hết tất cả lại về ḿnh,
chỉ trừ ra bầy chiên nhỏ (small flock), tức những
người được chọn (the elect), cây nho thật
của Thượng đế (true vine of God).
375.1 Nhưng Thời đại [thứ 6] này khiến
chúng ta cảm thấy buồn tiếc (how sad) dường
nào khi chúng ta nhận biết rằng qua mỗi vận
động lớn (great move) của Thượng đế
(mà rất nhiều người) vẫn xao lăng không từ bỏ
giáo lư [chế độ tổ chức] Ni-cô-la, bởi v́ tất
cả họ đều đă lập tổ chức mà chết
đi (all organized and died)! Rồi sau đó họ c̣n diễn
biến thành các hệ phái (denominations) để giữ kẻ
chết thuộc linh (spiritually dead) trên những cánh đồng
vô lương thực (foodless pastures).
Họ chỉ biết rất
ít về điều này v́ mỗi nhóm đều mắc phải
cùng một sự sai lầm, và khi lửa phục hưng
(revival) cháy lu mờ, th́ sự tổ chức đến tiếp
quản và người ta trở thành các hệ phái. Họ
chỉ là tín đồ Cơ-đốc hư danh (nominal
Christians) mặc dầu mỗi nhóm đều dùng lời lẽ
bảo đảm giống như Giáo hội Công giáo La-mă, tự
xưng ḿnh là đúng và tất cả những nhóm khác đều
sai. Giai đoạn này thật sự đă dọn
đường cho các con gái trở về nhà trong thời
đại sau rốt, trở về với La-mă, dưới
cánh gà mẹ.
375.2 Và v́ thế mà chúng ta đi đến Thời
đại Sau rốt [thứ 7]: Thời đại
Lao-đi-xê. Đó là thời đại của chúng ta. Chúng
ta biết nó là thời đại sau rốt, v́ người
Do-thái (Jews) đă trở về Pa-lét-tin (
375.3 Thời đại Luther là mùa xuân. Thời đại
Wesley là mùa hạ của sự tăng trưởng. Thời
đại Lao-đi-xê là thời kỳ gặt hái của sự
gom góp cỏ lùng (gathering the tares for binding) để thiêu
đốt; Và của việc để dành lúa ḿ cho Chúa
(garnering the wheat for the Lord).
375.4 Mùa gặt đă đến: Anh em có để ư
điều này trong thời kỳ gặt hái không: Dầu có
sự tăng tốc (acceleration) thật sự trong quá tŕnh
chín mùi, nhưng rồi sau đó sẽ có sự giảm tốc
trong việc tăng trưởng (slowing of growth) cho đến
chừng chẳng con có sự tăng trưởng nào nữa
(no growth)? Đó há chẳng phải là điều chúng ta
đang thấy bây giờ sao? Cây nho giả đă rơi phần
lớn người vào chủ nghĩa Cộng sản
(Communists) và các loại tín ngưỡng (belief) khác. Con số
của nó chẳng gia tăng ǵ như nó muốn chúng ta
nghĩ. Hiệu năng cầm giữ dân chúng của họ
không c̣n như trước kia nữa, và trong nhiều
trường hợp việc đi nhà thờ cũng chỉ
c̣n tác dụng như là một buổi tŕnh diễn mà thôi.
C̣n
cây nho thật? Nàng th́ sao? Nàng có tăng trưởng không? Những
người dự qua các buổi nhóm phục hưng và
đă từng đáp ứng lời kêu gọi ṭa giảng
(altar calls) nay ở đâu? Phải chăng họ hầu hết
chỉ là cảm động nhất thời (merely emotional)
khi họ bước ra hoặc quá mong muốn những ǵ
thuộc thể (physical) hơn là mong muốn những ǵ thật
sự thuộc linh (truly Spiritual)? Phải chăng thời
đại này chẳng khác ǵ thời Nô-ê lúc ông đă bước
vào tàu (the ark), và cánh cửa đă đóng lại, nhưng
Thượng đế c̣n tŕ hoăn sự Phán xét (tarried in
judgment) trong Bảy ngày? Thế mà chẳng có ai thực sự
trở lại với Chúa trong những ngày yên lặng
đó (silent days).
375.5 Nhưng v́ bây giờ là mùa gặt. Cho nên tiếp
theo đó phải xuất hiện trên hiện trường
(scene) trong thời đại này những người sẽ
mang lúa ḿ và cỏ lùng đến sự trưởng thành: Cỏ
lùng đă trưởng thành rất nhanh chóng qua các “Giáo
sư bại hoại” (corrupt teachers) là kẻ đă làm cho
dân sự xa bỏ Lời Chúa; Nhưng lúa ḿ cũng phải
trưởng thành. Và đối với nàng, Thượng
đế sai phái vị “Sứ giả Tiên tri” với công vụ
được chứng thực hầu cho người
được tiếp nhận bởi những người
được chọn. Họ sẽ nghe lời người
như Hội Thánh đầu tiên nghe theo Phao-lô, và nàng sẽ
trưởng thành trong Lời Chúa cho đến chừng trở
thành “Tân nương của Lời” (a Word Bride), công việc
quyền năng (mighty works) luôn dựa trên Lời thuần
chính (the pure Word) và đức tin sẽ được t́m
thấy trong nàng.
376.1 Các nhóm của Giáo hội giả (false church groups)
sẽ họp chung nhau trong Hội đồng Giáo hội Thế
giới (world council of churches). Hội đồng Giáo hội
Thế giới này là H̀NH TƯỢNG NỔI LÊN ĐẾN
CON THÚ (IMAGE ERECTED TO THE BEAST). Khải huyền 13:11 18 chép:
“11 Tôi lại thấy từ dưới đất
lên một con thú khác (another beast), có hai sừng như sừng
chiên con (lamb), và nói như con rồng (dragon).
12 Nó cũng dùng mọi
quyền phép của con thú tại trước mặt con thú
ấy, và bắt thế gian cùng dân cư nó phải thờ
lạy con thú trước, là con có vít thương đến
chết đă được lành (whose deadly wound was healed).
13 Nó làm những phép lạ
lớn (great wonders), đến nỗi khiến lửa từ
trên trời rơi xuống đất trước mặt
người ta.
14 Nó lừa dối dân
cư trên đất bằng những phép lạ (miracles) nó
đă được phép làm ra trước mặt con thú; Và
khuyên dân cư trên đất tạc tượng cho con thú
đă bị thương bằng gươm và đă sống
lại.
15 Nó cũng được
quyền hà hơi sống vào tượng con thú, hầu cho
tượng ấy nói được và khiến hết thảy
những kẻ nào không thờ lạy con thú đó bị giết
đi.
16 Nó cũng khiến mọi
người, nhỏ và lớn, giàu và nghèo, tự chủ và
tôi mọi, đều chịu ghi dấu (a mark) hoặc trên
tay hữu, hoặc trên trán;
17 Hầu cho người
nào không có dấu ấy (the mark), nghiă là không có danh (the name)
con thú hay số của tên nó (the number of his name), th́ không thể
mua cùng bán được.
18 Đây tỏ ra sự
khôn ngoan: Kẻ nào thông minh, hăy tính số con thú (count the
number of the beast), v́ đó là số của một người
(the number of a man); Số nó là sáu trăm sáu mươi sáu (his
number is 666).”
Bây giờ hăy nhớ rằng ấy
là chỉ về Đế quốc La-mă ngoại lai (Imperial
Pagan Rome) đă bị ngă bởi gươm. Nhưng nó
được lành khỏi sự chết từ khi nó liên kết
với Giáo hội hư danh của La-mă (the nominal Christian
church of Rome), lại kết hợp ngoại giáo (paganism) với
Cơ-đốc giáo (Christianity) mà trở thành Vương
quốc Thánh La-mă (the Holy Roman Empire), sẽ tồn tại
cho đến chừng Chúa Jêsus tái lâm mà tiêu diệt nó.
Nhưng La-mă không đứng riêng rẽ một ḿnh. Các con
gái nó (her daughters) đứng chung với nó, và chúng sẽ bị
nó tước hết tất cả thẩm quyền qua Hội
đồng Giáo hội Thế giới (the World Council of
Churches).
Điều này dường như quá
xa vời đối với một số người
nhưng đó là một sự thật rất rơ ràng mà mọi
người có thể nh́n thấy, v́ cớ ngay lúc này các
Giáo hội đang điều khiển chính trị
(controlling politics), chỉ cần đến đúng thời
điểm nó sẽ biểu hiện ra sức mạnh
điều khiển đó là lớn dường nào. Vận
động Giáo hội toàn thế giới (ecumenical move) này
sẽ kết thúc bằng sự cầm đầu của
La-mă mặc dầu người ta không trông chờ nó sẽ
diễn ra như thế.
Điều này là thật v́ cớ
trong Khải huyền 17:3-6 nói rơ người đàn bà tà dâm
(the whore), là Ba-by-lôn huyền nhiệm (Mystery Babylon) ngồi
trên lưng con Thú. Nó đang điều khiển đế
quốc cuối cùng, hay là đế quốc thứ tư
(the last / fourth empire). Giáo hội La-mă này đang làm điều
đó. Với hệ thống Giáo hội thế giới
dưới sự điều khiển của La-mă, và h́nh
tượng này (hệ thống Giáo hội, image = church
system) sẽ thuận phục La-mă v́ cớ La-mă điều
khiển vàng bạc của thế giới.
V́
vậy tất cả mọi người đều phải
lệ thuộc vào hệ thống Giáo hội thế giới,
bằng không chỉ c̣n nhờ vào sự thương hại
của người khác mà sống, v́ họ không thể mua
hoặc bán mà không có dấu của con thú (mark of the beast) trên
tay hoặc trên trán. Dấu đóng trên trán có nghĩa rằng
họ sẽ phải chấp nhận giáo lư (the doctrine) của
hệ thống Giáo hội thế giới (the world church
system), như là giáo lư Ba ngôi (trinitarianism), v. v... Con dấu
đóng trên tay có nghĩa là chịu làm theo ư muốn (the will)
của Giáo hội thế giới (the world church).
Với quyền thế to lớn
này các hệ thống Giáo hội (church systems) sẽ bắt
bớ Tân nương thật (the true Bride). H́nh tượng
[con thú] này sẽ ngăn trở Tân nương giảng
đạo (preaching) và dạy đạo (teaching), v. v... Các
tôi tớ của nó sẽ bị cấm không được
an ủi và dạy chân lư cho những người cần
đến. Nhưng trước khi “kẻ chống christ”
(the antichrist, in person, qua một người) tiếp quản
cái hệ thống thế giới toàn diện của các
Giáo hội này (this complete world system of Churches), Hội Thánh thật
(the true church) sẽ được cất lên (will be taken
away) khỏi thế gian này để ở cùng với Chúa. Chúa
sẽ nắm lấy Cô Dâu Ngài ra khỏi họ (will catch
away His Bride) lên dự Tiệc Cưới vĩ đại
của Chiên Con (great Marriage Supper of the Lamb).
377.1 Bây giờ, v́ mục đích chương cuối
này là để tra cứu hai thứ Hội thánh (churches) và
hai loại thần linh (spirits) từ thời lễ Ngũ
tuần đầu tiên cho đến giờ hoàn tất công
tŕnh của họ (their consummation), chúng ta sẽ dùng th́ giờ
chót này để tŕnh bày điều này qua Thời đại
Lao-đi-xê.
377.2 Thời đại này đă bắt đầu
ngay sau giao điểm của thế kỷ 20. Như đă
tŕnh bày, trong thời đại mà Hội Thánh thật sẽ
phải quay trở về làm Tân nương y như hồi
lúc lễ Ngũ tuần vậy (the true church would return to
being the bride she was at Pentecost), chúng ta biết rằng nhất
thiết phải có một sự quay trở lại về
quyền năng giàu động lực sôi nổi (a return of
dynamic power). Những tín đồ cảm nhận điều
này trong thần linh họ (in their spirits) đă bắt đầu
kêu cầu Chúa ban cho một sự tuôn đổ mới (a
new outpouring) y như đă từng xảy ra trong thế kỷ
đầu tiên vậy.
Dường như sự
đáp lời đă đến, bởi v́ nhiều người
bắt đầu nói tiếng lạ và biểu hiện các
ơn tứ của Thánh Linh (speak in tongues and manifest gifts of
the Spirit). Từ đấy, họ tin rằng đây
đích thực là điều chờ đợi lâu nay của
Sự Phục hồi (RESTORATION).
Nhưng chẳng phải, v́
mưa mùa cuối (latter rain) chỉ có thể đến sau
mưa mùa đầu (former rain) của mùa xuân hoặc là
mưa DẠY DỖ (TEACHING rain). Sau đó, Mưa mùa cuối,
tức là mưa MÙA GẶT (HARVEST rain) mới đến. Bởi
vậy những điều này đâu có thể là “đồ
thật” (the real thing) khi mà mưa Dạy dỗ (Teaching rain)
c̣n chưa đến?
V́ vị Tiên tri Sứ giả
(the Prophet Messenger) phải được sai đến
để DẠY dân sự và quay ḷng con cái trở lại
cùng những người cha Ngũ tuần (Pentecostal or
Apostolic fathers, các Sứ đồ) c̣n chưa có đến.
Cho nên những ǵ được
kể như là sự phục hồi (restoration) và sự
thúc giục cuối cùng (the final quickening) hướng về
sự cất lên thăng thiên (the rapture) c̣n chưa xảy
ra.
Trong đó chỉ là một sự
trà trộn của những kẻ không công b́nh (a mixture of the
unrighteous) đang dự phần vào phước hạnh thuộc
linh và đang biểu hiện [ơn tứ] trong Thánh Linh mà
chúng tôi đă tiếp tục không ngừng chỉ ra cho anh
em thấy. Trong đó cũng có quyền lực ma quỷ
(devil power) như việc con người ở dưới
sự điều khiển của ma quỷ, thế
nhưng dường như chẳng có ai nhận ra điều
đó! Và để chứng minh điều đó không phải
là THẬT, những người này (ngay trước khi thế
hệ thứ hai ra đời) đă thành lập tổ chức
(organized), biên soạn tin điều không phù hợp Kinh Thánh
(unscriptural doctrines), và lập lên hàng rào (hệ phái, own fences)
của riêng họ, y như các nhóm (giáo phái) trước họ
đă làm vậy.
378.1 Hăy
nhớ rằng đang lúc Chúa Jêsus c̣n ở thế gian,
Giu-đa cũng thế. Mỗi người xuất thân từ
một thần linh khác biệt (different spirit), và khi chết
mỗi người trở về chỗ riêng của họ:
Thần Linh của Đấng Christ (the Spirit of Christ) sau
đó giáng trên Hội Thánh thật (the true church) và thần
linh của Giu-đa (the spirit of Judas) đă trở về nhập
vào Hội Thánh giả (the false church). Nó ở ngay trong Khải
huyền 6:1 8,
“1 Tôi nh́n xem, khi Chiên Con mở ấn thứ
nhất trong bảy ấn, th́ tôi thấy một con trong bốn
con sanh vật nói tiếng như sấm rằng: Hăy đến!
2 Tôi nh́n xem, thấy một con ngựa
bạch (a white horse). Người cỡi ngựa có một
cái cung; Có kẻ ban cho người một cái măo triều
thiên, và người đi như kẻ đă thắng, lại
đến đâu cũng thắng.
3 Khi Chiên Con mở
ấn thứ nh́, tôi nghe con sanh vật thứ nh́ nói: Hăy
đến!
4 Liền có con ngựa khác sắc
hồng (another horse that was red) hiện ra. Kẻ ngồi trên
ngưạ được quyền cất lấy cuộc
hoà b́nh khỏi thế gian, hầu cho người ta giết
lẫn nhau; Và có kẻ ban cho người một thanh
gươm lớn.
5 Khi Chiên Con mở ấn thứ
ba, tôi nghe con sanh vật thứ ba nói: Hăy đến! Tôi nh́n
xem, thấy một con ngựa ô (black horse). Kẻ ngồi
trên ngựa tay cầm cái cân.
6 Tôi lại nghe ở giữa bốn
con sanh vật như có tiếng nói rằng: Một đấu
lúa ḿ bán một đơ ni ê, ba đấu mạch nha bán một
đơ ni ê, c̣n dầu và rượu chớ động
đến.
7 Khi Chiên Con mở ấn thứ
tư, tôi nghe con sanh vật thứ tư nói: Hăy đến!
8 Tôi nh́n xem, thấy một con ngựa
vàng vàng (xám, pale horse) hiện ra. Người cỡi ngựa
ấy tên là Sự chết và Âm phủ theo sau người.
Họ được quyền trên một góc tư thế
gian, đặng sát hại dân sự bằng gươm dao,
bằng đói kém, bằng dịch lệ và bằng các loài
thú dữ trên đất.”
Chúng ta thấy thể nào thần
linh Giu-đa trở lại như người cỡi trên
lưng ngựa trắng. Nó màu trắng, hầu như gần
giống cái thật (so close to the real), cũng như
Giu-đa rất gần với Chúa Jêsus vậy (so close to
Jesus). Có một măo triều thiên (a crown) đă được
ban cho người (người cỡi ngựa trắng).
Làm thế nào? Thần linh đó bây giờ ở trong lănh tụ
của hệ thống chế độ Ni-cô-la và người
là Giáo hoàng (pope) với một măo triều thiên ba tầng (a
triple crowned) ngồi như là Thượng đế trong
đền thờ của ḿnh và tự xưng ḿnh là “Vicar
(Đại diện)” của Đấng Christ. Nếu “Đại
diện của Đấng Christ” có nghĩa ‘thay thế
(instead of) Đấng Christ’ hoặc ‘ở trong chỗ của
(in place of) ‘ hoặc ‘thay mặt, trên tư cách của Thượng
đế’ (on behalf of God), như vậy Giáo hoàng đă tự
xưng ḿnh là Chúa Thánh Linh, hoặc băi bỏ (deposing) Chúa
Thánh Linh và hành xử thế Ngài (acting for Him). Đó là thần
linh của Giu-đa trong người làm điều đó.
Chúng ta thấy người đă chiến thắng đến
đâu thắng đến đó như thế nào.
Nhưng Đấng Christ không
làm điều đó. Chỉ có người được
định trước rồi (already predestinated) bởi
Đức Chúa Cha mới đến cùng Ngài mà thôi.
Và thần linh (the spirit of Judas)
này sẽ cứ như thế vận hành tới, và đến
một ngày nào đó nó sẽ thật sự hiện thân
trong một con người (truly incarnate in a man), kẻ ấy
sẽ đứng đầu Hội đồng Giáo hội
Thế giới, như chúng ta đă từng bàn đến.
Và bởi vàng bạc của nó (hăy nhớ là Giu-đa
cũng từng nắm giữ túi bạc), nó sẽ điều
khiển cả thế giới, và nhờ cái hệ thống
chống christ (antichrist system) đó mà nó sẽ có được
tất cả và c̣n muốn điều khiển mọi
người. Nhưng Chúa Jêsus sẽ trở lại và hủy
diệt họ hết bởi hào quang tái lâm của Chúa. Và kết
cuộc của họ sẽ là hồ lửa (lake of fire, Khải
huyền 19:20).
379.1 Nhưng
c̣n hạt giống thật (the true seed) th́ sao? Nó sẽ xảy
ra như chúng ta đă đề cập. Dân sự của
Thượng đế đang được chuẩn bị
sẵn sàng (are being made ready) bởi Lời của Lẽ thật
qua vị Sứ giả cho thời đại này. Trong nàng sẽ
có sự trọn vẹn đầy đủ (the fullness) của
lễ Ngũ tuần v́ Chúa Thánh Linh sẽ đem dân sự
về trở lại t́nh trạng lúc ban đầu. Đó
là “Lời Chúa Phán như vậy” (“Thus saith the Lord”).
379.2 Đó
là “Lời Chúa Phán như vậy” v́ đó là những ǵ Tiên
tri Giô-ên 2:23-26 đă dự ngôn,
“Hỡi con cái Si-ôn, các ngươi hăy nức ḷng vui vẻ
và mừng rỡ trong Giê-hô-va Đức Chúa Trời các
ngươi! V́ Ngài ban mưa phải thời (moderately) cho
các ngươi về mưa mùa đầu (former rain), và xuống
mưa dồi dào về mùa đầu và mùa cuối (the
former rain and the latter rain) cho các ngươi nơi tháng đầu
tiên.
Những sân sẽ đầy
lúa ḿ, những thùng tràn rượu mới và dầu.
Ta sẽ “đền bù [phục hồi]”* (I will
restore) cho các ngươi về mấy năm đă bị cắn
phá bởi cào cào (locust), sâu lột vỏ (cankerworm), sâu keo
(caterpillar), và châu chấu (palmerworm) là đạo binh lớn
(My great army) mà Ta đă sai đến giữa các
ngươi.
Các ngươi sẽ đủ ăn và được
no nê. Các ngươi sẽ ngợi khen Danh Giê-hô-va Đức
Chúa Trời ḿnh là Đấng đă xử với các
ngươi cách lạ lùng. Rồi dân Ta sẽ không hề bị
xấu hổ nữa.”
Nay,
Kinh Thánh nói rằng Đức Chúa Trời sẽ “phục hồi”*.
Thời đại Luther không phục hồi (restore)
được Hội Thánh; Nó chỉ khởi đầu một
cuộc cải chánh (reformation). Thời đại Wesley
cũng không phục hồi được. Thời đại
các hệ phái Ngũ tuần cũng không phục hồi
được Hội Thánh (chỉ phục hồi
được các ơn tứ). Nhưng Thượng đế
nhất định sẽ tiến hành phục hồi v́
Ngài không thể chối bỏ Lời (hứa) của Ngài
được. Đây không phải là sự phục sinh
(resurrection) của Hội Thánh mà là “sự phục hồi”.
Chúa sẽ đem Hội Thánh trở về lễ Ngũ tuần
ban đầu.
Bây giờ xin chú ư câu 25 cho thấy
tại sao chúng ta cần sự phục hồi (restoration):
V́ có cào cào, sâu lột vỏ, châu chấu và sâu keo cắn phá
tất cả chỉ chừa lại gốc (root) và chút cành
(stem). Bây giờ chúng ta được cho biết rằng tất
cả loài côn trùng này đều là cùng một giống loài
có hại nhưng xuất hiện trong các giai đoạn
khác nhau (different stages). Điều đó đúng lắm.
Chúng nó đều thuộc về “thần linh của kẻ
chống Đấng Christ” (the antichrist spirit) biểu hiện
qua tổ chức con người (organization), hệ phái
(denomination) và giáo lư giả (false doctrine) trải qua các thời
đại (the ages).
Gốc cây (root) khốn khổ
và cành (stalk) đó sẽ được phục hồi (be
restored). Chúa sẽ không ương trồng (plant) một Hội
Thánh mới (new church), nhưng sẽ đem cây nguyên thủy
(original planting) của Ngài trở lại cùng giống nguyên
thủy (original seed). Ngài đang thực hiện điều
được nói đến trong câu 23, qua sự “dạy dỗ”
(teaching), hay mưa ‘đầu mùa’ (former rain). Tiếp theo sẽ
đến mưa mùa gặt (harvest rain) hay “Đức tin về
sự được Cất lên Thăng thiên” (rapturing
faith).
380.1 V́
vậy tại thời điểm này chúng ta đang ở
trong sự ứng nghiệm hoàn toàn (the complete fulfillment) của
câu Ma-thi-ơ 24:24, “Nếu có thể được, th́ họ
cũng đến dỗ dành chính những người
được chọn.” Vậy th́ ai là kẻ dám t́m cách dỗ
dành người được chọn? Tại sao? v́ thần
linh của kẻ chống Đấng Christ ở trong “Những
kẻ được xức dầu giả mạo” (the
spirit of antichrist in the “false anointed ONES” ) của ngày sau rốt
này. Những kẻ giả h́nh (the false ones) này đă đến
trong “Danh Chúa Jêsus” xưng rằng họ được
Thượng đế xức dầu cho ngày sau rốt. Họ
là những ‘mê-si’ (Messiahs, những người được
xức dầu) giả mạo. Họ xưng rằng họ
là Tiên tri. Nhưng thử hỏi họ “Có hiệp nhất
với Lời Chúa không?”--Không bao giờ! Họ thêm hoặc
bớt Lời Chúa th́ có!
Không ai chối căi rằng Thánh
Linh của Chúa biểu hiện qua các ơn tứ có ở
trên họ. Nhưng giống như Ba-la-am, họ đều
có chương tŕnh (programs) riêng của ḿnh, đ̣i hỏi
đóng góp tiền bạc (appeal for money), thực hành ân tứ
(exercise gifts), nhưng lại bất chấp phủ nhận
hay phớt qua Lời Chúa (deny the Word or by pass it), v́ sợ có
sự mâu thuẫn (controversy) mà tiêu giảm cơ hội làm
giàu của họ. Thế mà họ vẫn c̣n rao giảng sự
cứu rỗi và sự giải thoát (salvation and deliverance) bởi
quyền năng của Thượng đế, y như
Giu-đa vậy, từng có một công vụ (ministry) do
Đấng Christ giao phó. Nhưng v́ cớ họ là hạt
giống lầm lạc (wrong seed), do đó mà có một thần
linh lầm lạc (a wrong spirit) sai khiến họ.
Về mặt nhiệt t́nh tôn
giáo (religious)? Ôi! Họ xuất sắc hơn những
người được chọn (the elect) trong sự nổ
lực và sự sốt sắng, nhưng đó chỉ là “người
Lao-đi-xê”, chẳng phải thuộc về Đấng
Christ, v́ nó t́m kiếm (dựa vào) đám đông (crowds), những
chương tŕnh qui mô (programs), và những dấu lạ
(signs) sửng sốt giữa họ. Họ cũng rao giảng
sự tái lâm của Đấng Christ, nhưng lại phủ
nhận sự xuất hiện của vị Sứ giả
Tiên tri (They preach the second coming of Christ, but deny the advent of the
prophet messenger), mặc dù quyền năng, dấu lạ, và
sự mặc khải thật của người rạng
rỡ hơn cả họ.
Vâng, thần linh giả mạo
(false spirit) này trong ngày sau rốt gần như thật,
nhưng có thể phân biệt được nó bằng cách
chỉ cần xem coi nó “có sai lệch với Lời Chúa
không” là biết ngay, và mỗi khi nó bị bắt gặp có
sự chống Lời Chúa (caught in being anti Word), nó lại
dùng lời bào chữa như sau, là điều mà chúng ta
đă từng bày tỏ ấy là một luận điệu
sai giả (false argument): “Chúng tôi há chẳng phải gặt
hái được nhiều thành quả sao (results)? Cho nên
chúng tôi nhất định là thuộc về Thượng
đế.”
380.2 Bây
giờ trước khi chúng ta kết thúc, tôi muốn tŕnh
bày ư nghĩ này. Trải qua nhiều lần chúng ta đă bàn
về Hạt giống Lúa ḿ bị chôn vùi, rồi mọc
lên hai cái chồi, rồi đâm nhị hoa, rồi trổ
bông lúa thật (the Seed of Wheat being buried, then sending up two
shoots, then the tassel, then the true ear). Điều này có thể
làm cho một số người thắc mắc rằng phải
chăng chúng ta nói rằng người theo giáo phái Lutherans
không có Thánh Linh v́ cớ họ chỉ dạy rất căn
bản về sự xưng công b́nh, nó cũng có thể khiến
kẻ khác thắc mắc về tín đồ giáo phái Giám lư
(Methodist), v. v... Thưa không, chúng ta không có nói như thế.
Chúng ta chẳng nói về những cá nhân hoặc nhóm người,
nhưng về “THỜI ĐẠI” (AGE).
Luther có Thánh Linh của Thượng
đế, nhưng thời đại người không phải
là thời đại của sự hoàn toàn phục hồi
(full restoration) với một sự tuôn đổ Thánh linh
(outpouring) khác y như trong buổi ban đầu. Trường
hợp cũng tương tự với Wesley, Booth, Knox,
Whitefield, Brainard, Jonathan Edwards, Meuller, v. v... Dĩ nhiên là họ
đều đă từng được đầy dẫy
Thánh Linh (full of the Holy Ghost). Vâng, họ chắc chắn
đă có. Nhưng cái thời đại mà mỗi nhân vật
trên sinh sống không phải là một thời đại phục
hồi (was not the age of restoration), cũng chẳng phải một
thời đại nào khác, ngoại trừ thời đại
sau rốt này, là một thời đại của sự
hoàn toàn tối tăm trong sự bội đạo (the age
of complete black out in apostasy).
Đây là thời đại
của sự bội đạo và đây cũng là thời
đại của sự phục hồi (restoration), nó là thời
đại của sự chung điểm chu kỳ (the age
of the finished cycle). Tới lúc này, tất cả đều kết
thúc.
381.1 Vậy
th́ chúng ta sẽ chấm dứt Bảy Thời đại
Hội Thánh tại đây, chỉ nói những ǵ Thánh Linh
đă Phán cho mỗi thời đại, “Ai có tai hăy nghe
điều Thánh Linh Phán cùng các Hội thánh.”
381 2 Tôi
thật t́nh tin rằng Thánh Linh của Thượng đế
đă Phán với chúng ta, không những chỉ dạy chúng ta
những Lẽ thật về các thời đại, Ngài
c̣n trung tín đối đăi với những tấm ḷng hầu
cho họ có thể quay trở lại cùng Ngài. Đó là lư do
cho tất cả Sứ giảng đạo và dạy đạo,
v́ thông qua sự giảng và dạy Lời Chúa mà bầy
chiên nghe được tiếng của Thượng đế
và đi theo Ngài.
381.3 Chẳng
có một giờ phút nào mà tôi mang đến một Sứ
điệp cho người ta để rồi họ
đi theo tôi, hoặc gia nhập ‘Giáo hội’ tôi, hoặc bắt
đầu lập một số ‘Hội đoàn’ (some
fellowship) và ‘Tổ chức’ ǵ. Tôi không bao giờ làm điều
đó và sẽ không làm như thế trong lúc này. Tôi chẳng
có hứng thú ǵ về những việc đó cả,
nhưng tôi lại có hứng thú trong những sự việc
thuộc về Thượng đế và dân sự Ngài, và nếu
tôi có thể hoàn tất được chỉ một
điều nào đó thôi, th́ tôi cũng sẽ rất thỏa
ḷng rồi. Điều duy nhất đó là muốn nh́n thấy
đă thiết lập được một mối quan hệ
thiêng liêng thật sự (a true spiritual relationship) giữa
Thượng đế và con người, tại đó con
người trở nên người dựng nên mới
(become new creations) trong Đấng Christ, được
đầy dẫy Thánh Linh Ngài (filled with His Spirit) và sống
theo Lời Ngài (live according to His Word).
Tôi muốn mời gọi
(invite), kêu nài (plead) và cảnh cáo (warn) tất cả mọi
người hăy nghe tiếng Ngài (hear His voice) vào lúc này, hăy
phó thác hoàn toàn cuộc đời ḿnh (yield your lives) cho Ngài,
như chính tôi vậy, đă hết ḷng tin cậy Ngài và
đă dâng hết tất cả những ǵ ḿnh có cho Ngài.
Nguyện Chúa ban phước
cho anh em, và nguyện xin sự tái lâm của Chúa khiến
ḷng anh em được mừng rỡ.
* Dịch giả ghi chú: 5 Lần Xuất hiện của
Thần linh Tiên tri Ê-li
(* Translator’s Notes: The 5 Coming of Elijah)
1. Ê-li (Elijah himself, II Các Vua 1:),
2. Ê-li-sê (Elisha, II Các Vua 2:9),
3. Giăng Báp-tít (John Baptist, Ma-thi-ơ 17:12;
Lu-ca 1:17),
Mở đường, báo trước
sự đến lần thứ nhất của Chúa Jêsus,
(Fore run for the First Coming of Christ)
4. William M. Branham (Ma-thi-ơ 17:11;
Ma-la-chi 4:5 6),
Sửa lại mọi sự / Khôi
phục Đạo: Chuẩn bị Chúa tái lâm rước
Tân nương! (Restore All Things/the WORD: Preparing for the 2nd Coming
of Christ & Preparing the Bride Ready for the Rapture)
5. Hai Chứng nhân Do-thái trong
Đại Hoạn nạn
(Two Jews Witnesses in the Great Tribulation, Khải huyền
11:3 7).
7
Thời đại của Hội Thánh và Sứ giả của
Thời đại đó:
(The
7
1. Ê-phê-sô
(
2. Si-miệc-nơ (Symyrna) (
170 - 312) Irenaeus
3. Bẹt-găm (Pergamos) (
312 - 606) Martin
4. Thi-a-ti-rơ (Thyatira) (
606 - 1520) Columba
5. Sạt-đe (
6. Phi-la-đen-phi (
7.
Lao-đi-xê (
Brother William Marrion Branham
(1909
-1965)
“Trụ Lửa” (the Pillar of
Fire) ngự trên đầu Tiên tri Sứ giả Brother (Anh)
William Branham (h́nh kỳ dị này là do kẻ đối nghịch
chụp được hồi tháng 1, năm 1950, tại
Houston, Texas (nước Mỹ); V́ Chúa đă đả kích
và khiến film của người ấy hư hết
nhưng chỉ c̣n có một tấm này có thể rửa ra
h́nh), Linh vật (supernatural Being) này đă theo người từ
khi người ra đời vào năm 1909 cho đến
nay, và đă xuất hiện vào năm 1933 (trong khi người
đang làm lễ báp-têm cho nhiều người tại sông
Ohio, thành phố Jeffersonville, tiểu bang Indiana), trước
mặt mấy trăm người mà nói về người
rằng, “Cũng như Giăng Báp-tít đă dọn
đường (foreran) cho lần đến thứ Nhứt
của Đấng Christ, ngươi sẽ dọn
đường cho lần đến thứ Nh́ của
Ngài.”
Có hơn 1187 bài giảng (1947-1965) của
Anh (Mục sư) Brother William Marrion Branham đă được
ghi âm trên băng. Phần nhiều đă được in
ra và đang dịch ra nhiều thứ tiếng. Muốn biết
thêm chi tiết về băng ghi âm và sách vở nói trên xin
liên lạc với chúng tôi qua địa chỉ sau:
Web Site: www.Bibleway.org/Vn
Cloverdale Bibleway
( Vietnamese, ver. 6a / Dec. 10, 2007 )