Bài Giảng của Anh (Mục Sư)

William Marion Branham

 

“Nhưng đến ngày mà vị Thiên sứ Thứ 7 cho nghe Tiếng ḿnh…”

(Khải Huyền 10:7)

 

 

 

 

 

 

Thần Lẽ Thật

 

Tại Hội Thánh Của Tất Cả Các Nước, Phoenix, Arizona, USA

Tối Thứ Sáu, ngày 18/01/1963

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


LỜI GIỚI THIỆU

 

Chức vụ thần kỳ của Anh (Mục sư) William Branham đă ứng nghiệm Lời dự ngôn của Chúa Thánh Linh trong sách Tiên tri Ma-la-chi 4:5-6, Lu-ca 17:30, và Khải huyền 10:07:

“Nầy, Ta sẽ sai đấng tiên tri Ê-li đến cùng các ngươi trước ngày lớn và đáng sợ của Đức Giê-hô-va chưa đến. Người sẽ làm cho ḷng các bậc Cha [Tiên tri và Sứ đồ] trở lại cùng con cái, ḷng con cái trở lại cùng các bậc Cha [Tiên tri và Sứ đồ], kẻo Ta đến lấy sự rủa sả mà đánh đất nầy.” (Ma-la-chi 4:5-6)

“Nhưng đến ngày mà vị Thiên sứ [Sứ giả] Thứ Bảy [Thời kỳ Sau rốt] cho nghe Tiếng [Sứ điệp Thời đại] ḿnh và thổi loa [Lời giảng Cảnh báo], th́ sự Mầu nhiệm [Khải thị và Dự ngôn] Đức Chúa Trời sẽ nên trọn, như Ngài đă phán cùng các Tôi tớ Ngài, là các đấng Tiên tri.” (Khải huyền 10:7)

Chức vụ truyền giảng trên khắp thế giới này đă dẫn đến thời kỳ cao điểm nhất của các Lời dự ngôn trong Kinh thánh, và là một sự nối tiêp công việc của Đức Chúa Trời qua Chúa Thánh Linh trong Thời kỳ Sau rốt này. Chức vụ này cũng đă được nhắc tới trong Kinh Thánh, để chuẩn bị cho ngày Tái lâm của Đấng Chirst.

Nguyện xin những Lời được in ra trên những trang giấy nầy cũng sẽ được ghi tạc trên chính tấm ḷng của các bạn, khi bạn đọc tập bài giảng nầy với một tâm t́nh cầu nguyện cùng Ngài.

Cho dù với mọi nỗ lực để thực hiện được một bản dịch chính xác, nhưng các tập tin ghi âm bài giảng bằng tiếng Anh của anh (Mục sư) Branham vẫn là bản gốc đáng tin cậy nhất.

Tất cả 1.200 bài giảng (Sứ điệp Thời đại) tiếng Anh của Anh (Mục sư) William Branham đă được ghi âm lại và đă được biên soạn thành sách đều có thể tự do hạ tải; Và hiện nay đă có gần 500 bài đă được dịch thành văn bản chữ Việt và có hơn 380 bài đă được ghi âm bằng tiếng Việt, đều có thể hạ tải miễn phi từ trên mạng

<http://Vn.Bibleway.org>

 <http://www.messagehub.info/vi>

Tập bài giảng này có thể được tự do sao chép và phân phát, miễn là nó phải được in ra toàn bộ không sửa đổi nội dung và phải được phân phát miễn phí.

 

 


Thần Lẽ Thật

 

1      Chúng ta hăy cứ đứng một lát trong khi cầu nguyện. Xin chúng ta hăy cúi đầu.

2      Kính lạy Cha Thiên Thượng công b́nh của chúng con, khi chúng con đến gần Ngài giờ này trong Danh Đầy đủ mọi sự của Chúa Jêsus, chúng con muốn dâng Ngài sự ngợi khen v́ những ǵ Ngài đă làm cho chúng con, những ǵ mắt chúng con đă thấy, và tai chúng con đă nghe trong những ngày Sau rốt này về viễn cảnh cuối cùng lịch sử thế giới này, khi thời gian biến mất dần trong Vĩnh cửu, và chúng con thấy Ánh sáng chiếu sáng, chúng con biết không c̣n bao lâu nữa Chúa Jêsus sẽ tái lâm.

3      Chúng con cầu xin Ngài, lạy Cha trên Trời, xin nhớ chúng con tối nay. Nếu có kẻ ác nào trong chúng con, xin đem nó ra ngoài, tối nay, Chúa ôi, hầu cho chúng con có thể được ở với Ngài nếu Ngài đến tối nay. Chúng con cầu nguyện cho người đau và có nhu cầu.

4      Chúng con cầu nguyện cho Hội thánh Ngài, cả ở đây và nước ngoài, khắp thế giới, con cái Ngài ở mọi nơi, mọi nước, để chúng con có thể tẩy sạch áo ḿnh trong Huyết Chiên Con, và lắng nghe v́ sự kêu gọi đó, “Ḱa, Chàng Rể đến, hăy đi ra gặp Chàng.” Chúa ơi, xin cho chúng con vào lúc đó có thể, bởi ân điển Đức Chúa Trời, và bởi chiến tích của Chúa Jêsus, Đấng mà chúng con tin cậy, khêu đèn ḿnh lên và đi ra lúc ấy để gặp Chàng Rể. Xin lấy Lời của Chúa tối nay mà cắt b́ ḷng chúng con. Xin lấy sự vô tín ra khỏi. Ban cho chúng con một Buổi nhóm lớn. Chúng con cầu xin trong Danh Đức Chúa Jêsus Christ. A-men!

       Xin mời ngồi.

5      Thật là tốt đẹp được trở lại đây trong... trong Đền thánh của Chúa tối nay, để hầu việc. Chúng ta đă có một th́ giờ vinh hiển nhất tối hôm qua tại... Anh Groomer. Tôi c̣n nhớ năm ngoái chúng ta đă có một th́ giờ vinh hiển.

6      Chúng ta đă có th́ giờ vinh quang ở mọi nơi. Chúa vừa ban phước cho chúng ta dồi dào, nhiều hơn tôi từng nghĩ Ngài sẽ làm. Nhưng Ngài thật đầy dẫy ḷng thương xót và nhân từ. Thật tốt để biết Ngài. Phải không? [Hội chúng nói, “A-men!” - Biên tập] Và nghĩ “Để biết Ngài, là Sự sống.” Để biết Ngài, là Sự sống.

7      Bây giờ, tối mai, chúng ta sẽ ở dưới Hội Đại lộ Trung Tâm, tôi tin nó được gọi thế. Anh Fuller, anh em tốt quí khác. Tôi nghĩ đó là một Nhà thờ lớn ở dưới đó. Chúng ta hi vọng có thể có một - một hàng người xin cầu nguyện chữa lành, nếu điều đó tốt với Anh Fuller. V́ thế chúng ta...

8      Và rồi, sáng hôm sau, chúng ta ở, tôi tin là ở tại Hội thánh Sứ đồ ở Phoenix tại đây. Tôi không nhớ Mục sư là ai, người anh em đó là ai. Tôi đă ở đó năm ngoái phải không? [Một anh em nói, “Không. Đó là ở Nhà thờ Mễ-tây-cơ mới, Anh Branham à.” - Bt]

9      Sau đó tối Chúa nhật ở tại Nhà thờ của Anh Outlaw ở trên đây, Nhà thờ Danh Chúa Jêsus. Và tôi với trạng thái chuẩn bị, và gia đ́nh tôi, đi vào đó và nghe một vài bài hát hay.

10     Billy Paul nên biết điều đó một chút, bằng tấm ḷng. Chúng tôi chơi bài hát đó, Tôi Sẽ Đi Lên, Đi Lên, cho tới khi, thành thật mà nói, băng đó cũ ṃn đi. Anh ấy bắt đầu trong văn pḥng, và mỗi lần trong ngày khi tôi đi đến đó, dù thế nào đi nữa, anh ấy đang chơi bài, “Lên, lên, lên.” Nó là điều ǵ đó. Chúng tôi chơi bài ấy, và băng ghi âm gần sờn.

11     Anh em biết, tôi hầu như có một cảm giác tối nay. Tôi bị khan giọng một chút. Tôi nghĩ: “Chà, nếu ḿnh có thể thấy người nào đó, sẽ nói cho ḿnh,” t́nh cờ nh́n qua đây và thấy Jack Moore. Hoàn toàn chính xác. Tôi không bao giờ... Ồ, tôi tin điều đó thật tuyệt vời, Anh Jack à. [Anh Jack Moore giải thích. - Bt] Bây giờ hăy lắng nghe điều đó.

12     Tôi nghĩ ḿnh thấy Anh Roy Borders cũng đang ngồi ở ngoài đây. Vâng, thưa quí vị. Anh Noel Jones đang ngồi ở trên đây. Ôi chao ơi! Chúng ta thật sự ngồi lại với nhau, khắp mọi nơi. Tôi nghĩ thật là một th́ giờ tuyệt vời, có lẽ, nếu tôi nghỉ ngơi một chút, anh em biết, và có một số người tốt đi lên đây và nói cho tôi v́ tôi bị khan tiếng, anh em biết đấy. Anh Jack nói, “Chúa không ở trong sự mặc khải đó.” Ồ, tôi mệt mỏi khi tôi đến. Và tôi - tôi hơi mệt một chút, luôn luôn vậy.

13     Tôi thấy nhiều người đang đứng đó, và cách họ phải đứng, và tôi vui mừng đứng với họ. Giờ này, xin Chúa ban phước cho anh chị em.

14     Chúng ta đang hướng đến những Buổi nhóm khác sắp tới. Và rồi tuần tới Buổi nhóm ở dưới Hội Ngũ Tuần, và ở trên đó. Chúng ta bế mạc tối thứ Tư tuần tới, vào ngày 11 tại Garfield. Tôi không thể nhớ hết trong trí. Tôi tin ở tại Hội thánh Đầu Tiên của Đức Chúa Trời (the First Assembly of God) trong thành phố. Và rồi Hội đồng bắt đầu ở [Nhà hàng] Ramada.

15     Bây giờ có một bữa tiệc dành cho [Hội] Thương Gia [Tin Lành] ở thành phố Tucson, Arizona.

16     Dĩ nhiên, hết thảy chúng ta biết rằng Phoenix và những nơi này, vùng ngoại ô của thành phố đó. Đúng thế. Đó là địa điểm chính. Đó là thành phố quê nhà của tôi, anh em biết đấy, chỗ này chỗ nọ ở trên đồi. Và rồi điều này, hầu như vùng ngoại ô của nó, thật vui mừng được hết thảy anh chị em là những người ở vùng lân cận đến dự.

17     V́ thế, tôi tin đó là Anh Rasmusson, một đêm nọ, đă nói điều ǵ giống như thế trong một Buổi nhóm và, ồ, chao ôi, giống như hủy bỏ Buổi nhóm ấy. Tôi tin chúng ta đă ở tại Houston. Và đó là Ramsar. Chính là người ấy. Anh ấy đă nói, tối hôm Thiên sứ của Chúa giáng xuống, họ đă chụp bức ảnh, và anh ấy nói, “Hết thảy anh em những người ở quanh đây từ Dallas đến, chúng ta biết đó là vùng ngoại ô của Houston.” Ồ, chao ôi! Texas không thể chụp bức ảnh giống như ở đây, như anh em có thể thấy. V́ thế đă có một sự làm cho nín lặng trên Buổi nhóm.

18     Chúng ta hăy t́m thấy một chỗ trong Phúc âm Giăng, chương thứ 16 của Tin lành Giăng. Tôi trích câu thứ 12 chương 16. Tôi thích đọc câu đó trong Tin lành Giăng. Tôi thích đọc Lời đó, bởi v́ Lời là điều khiến chúng ta biết đó là Lẽ thật. Bắt đầu với câu thứ 12, và hăy nghe kỹ giờ này, v́ tôi muốn đưa ra lời làm chứng.

20     Sau đó chúng ta sẽ cố đi vào sớm một chút. Tôi đă giữ anh chị em lại quá trễ. Tối mai, ồ, chúng ta sẽ ở lại thêm nửa giờ. Như vậy sẽ là gần một giờ, phải không? [Anh Branham và hội chúng cười. - Bt] Vậy, th́ bây giờ bắt đầu với câu thứ 12.

12 Ta c̣n có nhiều chuyện nói với các ngươi nữa; Nhưng bây giờ những điều đó cao quá sức các ngươi.

13 Lúc nào Thần Lẽ thật sẽ đến, th́ Ngài dẫn các ngươi vào mọi Lẽ thật; V́ Ngài không nói tự ḿnh, nhưng nói mọi điều ḿnh đă nghe, và tỏ bày cho các ngươi những sự sẽ đến.

14 Ấy chính Ngài sẽ làm sáng Danh Ta, v́ Ngài sẽ lấy điều thuộc về Ta mà rao bảo cho các ngươi.

15 Mọi sự Cha có, đều là của Ta; Nên Ta nói rằng Ngài sẽ lấy điều thuộc về Ta mà rao bảo cho các ngươi vậy.

21     Tối hôm qua, anh em biết, đặc biệt, chúng ta đă có một ví dụ tiêu biểu về điều đó. Vậy th́, chúng ta là một dân Phúc âm Trọn vẹn, tin vào mọi hoạt động của Đức Thánh Linh. Vậy th́, đó là cách duy nhất để chúng ta có thể là Phúc âm Trọn vẹn, là tin Phúc âm Trọn vẹn, mọi điều Chúa đă chép ra. Tôi tin rằng chúng ta, chính chúng ta chẳng là ǵ cả. Chúng ta thật giống như...

22     Như tôi đă nói với Anh Carl, ngày hôm qua, nh́n vào một cây, tôi nói, “Chẳng phải đó là một cây cọ đẹp đấy chứ? Nhưng cuối cùng, nó chẳng có ǵ cả ngoài một đống tro tàn. Chỉ có thế thôi.” Tôi nói, “Thật khác xa với cây bạch đàn. Ồ, cây bạch đàn là ǵ? Tro tàn, với một sự sống ở trong nó.” Tôi nói, “Rốt cuộc, tôi và ǵ và anh em là ǵ? Tro tàn, điều đó chính xác, từ đất; Bụi đất, với một sự sống ở trong nó.”

23     Nhưng mỗi sự sống đă được trồng bởi Đấng Ban cho sự sống, và Ngài biết đúng cách để làm và điều ǵ để làm. Mọi việc mà Ngài đă đặt trên trái đất v́ sự vinh hiển Ngài. Các ngôi sao là v́ sự vinh hiển Ngài. Các ngọn gió là v́ sự vinh hiển Ngài. Các bông hoa là v́ sự vinh hiển Ngài. Chúng ta là măo miện của sự vinh hiển Ngài.

24     Nhưng dường như mọi vật đều muốn vâng lời Ngài ngoài con người. Con người dường như chỉ... Con người có một lần như vậy, bởi v́ con người là vật duy nhất đă sa ngă. Mọi thứ khác ở lại trong t́nh trạng nguyên thủy của nó. Nhưng con người đă sa ngă. Do đó, Đức Chúa Trời có sự tranh chiến với con người, để làm cho con người làm những ǵ đúng, và vâng lời.

25     Một trong những vấn đề lớn cho Đức Chúa Trời, qua suốt các năm, như lịch sử của Hội thánh, là t́m thấy người nào đó mà có thể hoàn toàn ở trong sự kiểm soát của Ngài. Ngài chỉ cần một người. Ngài luôn luôn sử dụng một người vào một thời đại nào đó. Chúng ta đă học điều đó những đêm vừa rồi: Một người, không phải một nhóm người. Ngài chỉ muốn một người. Ngài chỉ cần thế thôi. Bởi v́, 2 người sẽ có 2 ư kiến khác nhau. Ngài chỉ làm một người, đại diện cho chính Ngài qua một người. Không bao giờ Ngài làm khác hơn điều đó. Hiểu không?

26     Bây giờ, Ngài đă có một Người ngày hôm nay, và Người đó là Đấng chúng ta vừa đọc: Đức Thánh Linh. Ngài là Người mà Đức Chúa Trời đă sai đến, Thánh Linh của Đức Chúa Jêsus Christ vào trong thế gian, Thánh Linh của Đức Chúa Trời bày tỏ và tuyên bố Đấng Christ qua Hội thánh Ngài, đấy, cứ tiếp tục Sự sống của Đấng Christ qua Hội thánh.

27     Đó là điều kỳ diệu như vậy, và - và tuy nhiên nó quá đơn giản, nếu chúng ta chỉ ngừng lại và suy nghĩ. Chúng ta giục giă, run rẩy, và chúng ta sợ, chúng ta trở nên xáo động và nghi ngờ, chỉ suy nghĩ. “Ồ, ḿnh phải vội vă vào không?” Không phải thế. Chỉ là sự đầu phục, nhận biết ḿnh chẳng là ǵ cả, và cứ để Ngài hoàn toàn cai quản anh em, cai quản sự suy nghĩ của anh em, quản trị.

28     Tôi không muốn nói bước đến với Đấng Christ với - với chỉ một tâm trí trống rỗng. Tôi không có ư đó. Anh em đến với Ngài với một tâm trí đúng đắn, và trong một - một tâm trí ăn năn, và khiêm nhường. Và rồi nói, “Lạy Chúa Jêsus, con đây. Vậy th́, có Lời chép ở đây, rằng Ngài ‘Có nhiều chuyện nói với các môn đồ.’ Ngài Phán, “Nhưng bây giờ những điều đó cao quá sức các họ.” Có lẽ đó là trường hợp của chúng ta ngày nay, chúng ta không thể hiểu họ.

29     Đức Chúa Trời có thể dấy lên một người nào đó hèn hạ khác biệt, mà chúng ta cùng nhau phản đối kịch liệt. Thay v́ t́m kiếm Lời Kinh thánh để biết nó đúng hay không, chúng ta chỉ ném nó đi nhanh chóng, “Không có chuyện như thế với điều đó.” Chúng ta nên t́m ra những điều này, t́m thấy chúng đúng hay không. Hăy nhớ, nếu chúng không đúng, cuối cùng chúng sẽ chết, v́ Chúa Jêsus đă Phán, “Mọi cây mà Cha Ta trên trời không trồng sẽ bị nhổ đi.”

30     Nhưng tôi nghĩ đó là cây Ga-ma-li-ên đă tuyên bố quan trọng lúc ấy, “Nhưng nếu bởi Đức Chúa Trời ra, th́ các ngươi phá diệt những người đó chẳng nổi, và lại là liều ḿnh đánh giặc cùng Đức Chúa Trời. V́ nếu mưu luận và công cuộc nầy ra không bởi Đức Chúa Trời, th́ sẽ tự hư đi.” Vậy, hăy nghiên cứu điều đó và suy nghĩ về nó.

31     Và bây giờ, Ngài Phán ở đây, “Nhưng khi Ngài, là Đức Thánh Linh đến.”

32     Vậy th́, có người nói, cách đây đă lâu, nói, “Đức Thánh Linh thật ra là tâm thần của anh em. Anh em suy nghĩ.” Điều đó sẽ đặt Đức Thánh Linh là một ư nghĩ.

33     Nhưng Kinh thánh nói, “Khi Ngài...” Và “Ngài” là một đại từ nhân xưng. Hiểu không?

       “Khi Ngài” -- Con Người, Đức Thánh Linh, Đức Chúa Trời, “đến, Ngài sẽ bày tỏ những điều này cho các ngươi, mà Ta đă bảo cho các ngươi.”

34     Thế th́, anh em thấy, không có cách nào khác để biết điều ǵ là Lẽ thật. Chỉ bởi... Anh em không thể hiểu được nó bằng văn hóa, bằng kinh nghiệm Thần học. Anh em sẽ chỉ hiểu được nó bởi Đức Thánh Linh. Ngài là Đấng được sai đến để bày tỏ Nó. Vậy th́, Ngài cũng đă Phán, “Và Ngài sẽ tỏ cho các ngươi những việc sẽ đến.”

35     Sách Hê-bơ-rơ chương thứ nhứt, nói, “Đời xưa, Đức Chúa Trời đă dùng các đấng Tiên tri Phán dạy tổ phụ chúng ta nhiều lần nhiều cách, rồi đến những ngày sau rốt nầy, Ngài Phán dạy chúng ta bởi Con Ngài, là Đức Chúa Jêsus Christ.” Hiểu không? Đó là Đức Thánh Linh chiếm hữu, hay nhận sự sở hữu Hội thánh, để Đấng Christ hoạt động trong Hội thánh. Thế th́, anh em trở nên giống như Ngài. Ngài trở nên như anh em, v́ thế anh em có thể trở nên như Ngài. Hiểu không? Ngài trở nên anh em, để anh em có thể trở nên Ngài. Thế th́, điều - điều đó vượt quá sự hiểu biết. Không có cách nào để giải thích điều đó, và đừng cố gắng giải thích nó. Cứ chấp nhận nó. Ngài đă Phán Điều đó, và thế là xong. Chỉ nói nó đúng. Hăy tin Nó.

36     Vậy th́, là một Cơ-đốc nhân trẻ tuổi, tôi luôn tuyên bố điều này. Tôi vui mừng Đức Chúa Trời đă nắm giữ tôi trước khi Giáo hội nắm giữ. Khó nói tôi đă là ǵ. Nhưng tôi cảm ơn về sự lănh đạo và tiếp xúc trực tiếp mà Đức Thánh Linh in sâu trong đời sống tôi, trước khi tôi đầu phục. V́ là một người trẻ tuổi, tôi biết có Điều ǵ đó. Ngài đă tṛ chuyện, và tôi đă tṛ chuyện với Ngài. Ngài tṛ chuyện lại với tôi. Tôi bắt đầu để ư rằng những sự việc mà Ngài đă bảo tôi khi c̣n nhỏ, chúng bắt đầu xảy ra hoàn toàn chính xác như cách Ngài đă Phán. V́ thế tôi biết nó phải là có thực.

37     Bây giờ, tôi là một người già lúc này. Và tôi - tôi chưa bao giờ có lần nào... Và có thể gọi thế gian đến chỗ ngừng lại và hỏi họ, “Hăy vạch ra một việc mà Ngài đă từng bảo tôi, trong LỜI CHÚA PHÁN VẬY, nhân danh Chúa, ngoài những ǵ hoàn toàn là sự thật và thực tế, và ứng nghiệm, hàng ngàn lần ngàn các sự việc.” Điều ǵ...

38     Tôi đang nói v́ điều ǵ? Xem đấy, tôi đă làm cho hết thảy chúng ta như bụi tro. Nhưng đó là Lời hứa của Đức Chúa Trời. Do đó, tôi không thể tự tin ở chính ḿnh. Anh em không thể tin tưởng ở anh em. Nhưng, cùng nhau, chúng ta có thể tin tưởng vào Đấng đă cai quản chính ḿnh. Đức Thánh Linh đă tiếp quản chúng ta. Chúng ta phải tin tưởng ở Ngài. Khi chúng ta đặt niềm tin vào Điều đó, th́ kết quả sẽ đến.

39     Ắt hẳn không có lư do ǵ để tôi cố gắng bàn căi qua loa với anh em một số việc mà Đức Thánh Linh đă làm trong những ngày đời sống tôi suy yếu. Tôi nói điều này với Kinh thánh của Ngài mở ra, là Lời Ngài. Và đó là những ǵ Ngài có. Ngài là Lời.

40     Xem đấy, Hạt giống này ở đây đi vào bụi đất, trong một cách thuộc về Sự Hiện hữu Thuộc linh. Đức Chúa Trời đến trong giống như Thánh Linh và hoạt động qua tro bụi. V́ thế, đó không phải là con người. Đó là Đức Chúa Trời.

41     Nếu tôi ngồi xuống, và dùng th́ giờ để viết ra những sự việc mà tôi đă thấy Ngài làm, nó sẽ làm thành một khối lượng lớn những quyển sách. Suy nghĩ về điều đó ở đây, 53 tuổi, và có thể nói trước Đức Chúa Trời, Hội thánh Ngài, và Kinh thánh, trong sự Hiện diện của nhóm này, rằng: Tôi không có một lần nào thấy điều đó sai trật; Mỗi lần đều đúng hoàn toàn.

42     Ngoại trừ, một ngày nọ khi tôi đến hướng Tây. Tôi tin nhiều người trong các anh chị em đă nghe băng ghi âm chắc hiểu. Tôi không biết điều ǵ. Tôi đang chờ đợi. Tôi ở đây lúc này. Tôi không biết tại sao. Tôi chỉ đang chờ đợi.

43     Có lẽ là lúc tôi đi về Nhà. Trông giống như thế rất nhiều. Nếu vậy, sẽ dấy lên người nào đó sau tôi, mà sẽ tiếp tục đảm trách Sứ điệp. Người ấy sẽ là một người lập dị, nhưng người ấy sẽ đi theo điều này, và tiếp tục đảm nhận Sứ điệp. C̣n anh chị em sẽ lắng nghe nó. Chừng nào đó là Lời Kinh thánh, hăy ở lại sống với Nó.

44     Nếu không, sẽ đến sự phân bổ khác lúc này, v́ tôi tin rằng chúng ta đang sống trong những ngày Sau rốt, tôi biết ơn rằng tôi đă sống trong thời đại này. Tôi sẽ không đổi chác thời đại này cho thời đại nào khác. Đây là thời đại vinh hiển nhất từng có trên đất. Không có thời đại nào khác vinh hiển hơn thời đại này.

45     Ồ, Môi-se, Ê-li, Phao-lô, Si-la, những anh hùng đức tin vĩ đại ấy trong những thời đại đă qua, có thể sống lại và viết một quyển sách lịch sử, và trông có vẻ chính xác với những ǵ họ đă nói tiên tri, ứng nghiệm, và thấy chúng ta hiện ở đâu giờ này? Tại sao, người ta đă bắt giam họ trong tù, trong một thời đại. Chắc chắn vậy. Họ sẽ giống như những người hoang dă, đi lên đi xuống đường phố, thật khó cho họ có thể đi rao truyền Phúc âm. “Th́ giờ đă gần rồi.” Thế th́ chúng ta thấy, tối nay, rằng chúng ta rơi vào t́nh trạng thiếu hụt sự vinh hiển của Đức Chúa Trời.

46     Nhưng tôi muốn nhắc lại, chỉ một lát, để hầu như đem Hội thánh đến...

47     Nhân đây, Billy Paul đă phát ra những thẻ cầu nguyện trong Hội thánh này tối nay không? Tôi vừa từ Tucson đến cách đây vài phút. [Người nào đó nói, “Vâng.” - Bt] Cậu ấy đă phát thẻ. Vậy th́, đó sẽ là một cách kinh khủng cố gắng để mang người ta tới. Chúng ta sẽ thử điều đó.

48     Tôi sẽ không làm mất th́ giờ quá lâu, chỉ đưa ra lời làm chứng dựa trên Lời Kinh thánh này.

49     Rằng, Đấng Christ giữ mọi Lời Ngài. Ngài phải giữ. Ngài phải làm điều đó. Hiểu không? Tôi không có phải làm điều đó; Tôi là một con người hay chết, mắc nhiều lỗi lầm. Ngài không hề chết, không thể sai lầm. Ngài phải giữ Lời Ngài. Hiểu không? Nhưng tôi không phải giữ lời của ḿnh. Anh em không phải giữ lời của anh em. Nhưng Ngài th́ giữ Lời Ngài. Ồ, điều đó chẳng đặt điều ǵ đó trong anh chị em, để biết rằng Ngài - Ngài bị trói buộc hoàn toàn vào Lời đó chăng? [Hội chúng nói, “A-men!” - Bt]

50     Tuần này, chúng ta đi xuyên suốt Kinh thánh, với những Tiên tri và những tổ phụ đó, và mỗi lần tỏ cho thấy rằng khi Hội thánh đi cách xa điều đó, th́ Đức Chúa Trời sai người nào đó đến ngay và lay chuyển họ trở về lại đúng với Lời ấy ngay, đúng hàng lối Hội thánh. Điều đó đă luôn luôn xảy ra. Đó là chính sách của Đức Chúa Trời. Ngài đă chọn những con người để làm vậy.

51     Bây giờ, nếu Ngài chọn những ngôi sao để rao giảng Phúc âm, điều đó đă được làm cách đây một thời gian lâu. Chúng không bao giờ đi ra khỏi ư chỉ của Ngài. Nếu Ngài đă chọn mặt trời để giảng điều đó, hay những ngọn gió để giảng, chúng ắt không bao giờ đi ra ngoài ư chỉ của Ngài. Hiểu không?

52     Nhưng chúng ta ở trên nguyên tắc của tự do đạo đức. Chúng ta có thể hành động theo cách chúng ta muốn. Và đó là lư do mà chúng ta bị bệnh tim như vậy với Ngài. Luôn luôn cách này, và muốn đưa vào đường lối riêng của chúng ta, mà bỏ đi đường lối của Ngài. Hiểu không?

53     Tôi - tôi đă nói trước đây, con người thường xuyên ca ngợi Đức Chúa Trời v́ những ǵ Ngài đă làm.Và con người luôn nói về những ǵ Ngài sẽ làm. Và rồi đồng thời, bỏ qua điều ǵ Ngài đang làm. Hiểu không?

54     Con người sẽ nói, “Ồ, Đức Chúa Trời đă mở Biển Đỏ ra. Vâng. Vinh quang thuộc về Đức Chúa Trời! Đúng thế.” Vâng, Chúa Jêsus đang đến lần nữa. Ha-lê-lu-gia! Đúng thế.” Nhưng, nói về Ngài ngày hôm nay à? “À, điều đó dành cho thời đại khác.” Đấy, thấy không? Luôn luôn những ǵ Ngài sẽ làm, những ǵ Ngài đă làm, mà bỏ quên những Ngài đang làm.

55     Đó là những t́nh trạng không thay đổi mà Đức Chúa Jêsus Christ đă thấy khi Ngài đến thế gian. Chính xác. Đức Chúa Trời đă Hứa những ǵ Ngài đă làm. Và Ngài đă ở đây, đứng trước họ, mà họ không biết Ngài. “Ngài đă đến thế gian, và thế gian được làm bởi Ngài, mà thế gian không biết Ngài.” Đúng thế.

56   “Nhưng hễ ai đă tin nhận Ngài, th́ Ngài ban cho họ quyền phép trở nên con cái của Đức Chúa Trời.” Đó là phần vinh hiển.

57     Cách đây một thời gian, một khải tượng nhỏ tôi muốn nói với anh chị em. Và tôi không biết, có lẽ tôi không bao giờ nói điều đó ngoài với một cá nhân ở đâu đó. Nhưng tôi vừa mất một trong những người vĩ đại nhất trên thế gian này, với tôi, đó là mẹ tôi.

58     Tôi - tôi yêu mẹ tôi. Tôi đă thấy bà rời khỏi bàn, khi mà chúng tôi rất nghèo, không có ǵ để ăn. Và bà... Cha sẽ mang vào một ít bánh ḿ, mà ông hẳn lấy từ một cửa hiệu, hay cái ǵ đó, và họ họ đổ cà-phê lên, rồi đường lên trên đó. Mẹ làm giống như bà không đói, để chúng tôi có thể có cái ǵ đó để ăn. Ồ, tôi có thể không bao giờ quên điều đó. Hiểu không? Nhiều lần bồng tôi lên, và lấy cái ǵ đó cho tôi. Nhưng anh chị em biết đấy, Đức Chúa Trời quá giàu ḷng thương xót. Ngài hiểu hết những điều đó, khi Ngài phải nhận chúng. Và tôi - tôi yêu Ngài v́ điều đó.

59     Điều đó luôn xảy ra, trước khi bất cứ người dân nào của tôi chết, tôi thấy điều đó trước nó xảy ra, trong sự hiện thấy.

60     Tôi đă thấy em trai tôi, khi tôi chỉ gần 18, hay 19 tuổi. Tôi đă thấy cậu ấy trước khi cậu ấy ra đi. Thậm chí lúc ấy tôi chưa phải là Cơ-đốc nhân, nhưng tôi đă thấy khải tượng đến trước tôi, thấy em trai tôi chết.

       Tôi đă thấy ba tôi khi ông chết.

61     Howard, nhiều người trong anh chị em c̣n nhớ Howard. “Howard,” anh chị em c̣n nhớ tôi, 2 năm trước khi điều đó xảy ra, tôi đă nói, “Howard, tôi đă thấy anh bị đóng dấu. Anh là người tiếp theo.” Tôi nói, “Hăy sống tốt, anh ơi, bởi v́ anh sẽ đi tiếp theo.” Và đúng vậy, anh ấy đă đi. Và rồi, cách đây một thời gian...

62     Bây giờ, tôi hi vọng điều này không có vẻ mê tín dị đoan, nhưng, chỉ cho thấy mối liên quan với Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời luôn liên quan đến những việc nhỏ, cũng như những việc lớn. Tôi muốn nói điều này v́ lợi ích của một số Thầy giảng tốt đẹp này. Điều đó có thể là... Và tôi tự lao ḿnh vào nó.

63     Vậy th́, chúng ta sẽ, mỗi người, thích là một Billy Graham, nhưng chúng ta... Mỗi người chúng ta có thể thích là một Oral Roberts. Nhưng chúng ta, chúng ta không phải là một Billy Graham hay một Oral Roberts. Chúng ta là tôi tớ của Đức Chúa Trời trong công trường thuộc linh mà Ngài đă đặt để chúng ta ở trong đó. Hiểu không? Cho dù hèn mọn thế nào đi nữa, hay vĩ đại thế nào, đều giống như nhau trước mắt Đức Chúa Trời, luôn giống nhau, hăy hành động đúng trong địa vị của anh em. Luôn luôn là một việc lớn để đi theo Chúa.

64     Tôi thà có được... hay đi và có một Hội thánh với 50 người ở trong đó, trong ư Chúa, c̣n hơn là hành động để có 5.000 người ngoài ư Chúa. Chắc chắn vậy. Đức Chúa Trời có thể làm nhiều hơn với một người trong ư Ngài, trong một giờ, hơn là Ngài có thể làm với một người ngoài ư Ngài, trong 50 năm. Hiểu không? Người đó lưỡng lự và hồ nghi, giống như bắn trong bóng tối. Nhưng khi một người thật sự ở trong ư muốn của Đức Chúa Trời, và biết sự kêu gọi của Ngài, người ấy sẽ ở lại ở đó. Và bây giờ, những khải tượng, Chúa là Đức Chúa Trời làm việc với chúng như thế nào. Tôi...

65     “Lúc nào Ngài, Đức Thánh Linh đến, th́ Ngài sẽ bày tỏ cho các ngươi những điều này mà Ta đă nói với các ngươi.” Vậy th́,không cần cố gắng h́nh dung ra nó, bất cứ cách nào khác. Ngài là Đấng Tác Gỉa. Ngài chắc chắn phải biết những ǵ Ngài đă viết ra. Hiểu không? Kinh thánh nói Ngài đă viết nó. “Ngay cả những người già, được vận hành bởi Đức Thánh Linh, đă viết Lời.” Và nếu Đức Thánh Linh là Tác Giả của Lời, chắc chắn Ngài biết cách thông giải Nó tốt hơn chúng ta. Hăy để Ngài làm sự thông giải của Lời. Và anh em biết cách Ngài thông giải Nó như thế nào không?       Vậy, đừng bỏ lỡ những điều này nếu anh em đang đến với một Buổi nhóm Chữa lành. Hăy xem. Đừng bỏ qua điều này. Ngài thông giải Nó như thế nào? Bởi điều này, với sự chứng thực Nó, xem đấy, làm cho Nó như vậy.

66     Đó là những ǵ Chúa Jêsus đă Phán. “Các ngươi tra xem Kinh thánh. Các ngươi nghĩ ḿnh có Sự sống Đời đời, Và Lời nói Ta là Ai. Lời Kinh thánh nói về Ta. Ai có thể lên án Ta. Ai có thể kết tội Ta?” Tội lỗi là “không tin.” “Nếu Ta không làm các việc đă được chép về Ta, th́ đừng tin Ta. Nhưng nếu Ta làm các công việc, và các ngươi không thể tin Ta, th́ hăy tin các việc Ta làm, bởi v́ Lời đă nói về Nó.” Hiểu không? Đó là ư nghĩa thật b́nh thường, mọi ngày.

       Vậy th́, Đức Chúa Trời, “Sự ban cho và sự kêu gọi không có sự hối tiếc.” Chúng ta biết Kinh thánh nói thế. Chúng làm điều đó.

67     Hầu như đă được 2 năm, tôi... Một buổi sáng nọ, tôi đang đi dạo trong nhà, và rồi ngồi xuống ghế. Bấy giờ, điều này có vẻ rất lạ, đến nỗi Đức Chúa Trời kể cả một con vật. Giống như người anh em quí báu nào đó, dựa trên khải tượng về Thiên đàng đó, về hành động quen thuộc mà tôi đă có; Tôi tin có lần tôi đă nói với anh em về điều đó, hay Buổi nhóm nào đó. Anh ấy đă viết cho tôi một bức thư ngày nọ, và nói... Tờ báo “Tiếng Nói Thương Gia Tin Lành” có lấn viết, “Khải tượng của Anh, sự giải thích của Anh tốt lắm, Anh Branham à. Nhưng, nghe này, nó đúng cho tới khi Anh nói con ngựa của Anh mà Anh đă từng cưỡi, đến đặt đầu của nó trên vai Anh. Không có những con ngựa trên Trời, thưa Anh Branham. Thiên đàng được dựng nên dành cho con người, không phải cho những con ngựa.” Ô, tôi nghĩ...

68     Ô, thường thường, anh em thấy người nào giống như thế, anh em phải giải thích mọi chuyện, họ chỉ đang cố nhặt ra điều ǵ đó. Hiểu không? Anh em không thể giải thích Đức Chúa Trời, dù sao đi nữa. Anh em chỉ phải tin Ngài.

69     Nhưng điều đó có lẽ an ủi anh ta. Tôi nói, “Thưa anh, tôi không bao giờ nói tôi đă ở trên Thiên đàng. Trong khải tượng, tôi đă cầu xin Chúa Jêsus, và người ta nói Ngài vẫn c̣n ở đây. Tôi đă ở trong một trạng thái giống như Thiên đàng. Nhưng mà điều đó có thể giúp đỡ anh, Kinh thánh nói, trong Sách Khải huyền, rằng, “Chúa Jêsus từ Trời đến, cỡi trên một con ngựa bạch. Các đạo binh trên trời đều mặc vải gai mịn, trắng và sạch, cỡi ngựa bạch theo Ngài.’ Vậy phải có một số ngựa ở trên Trời.”

70     Đức Chúa Trời quan tâm đến mọi thứ. Ngài quan tâm đến những điều nhỏ nhặt hay những việc lớn anh chị em làm. Ngài quan tâm đến cách anh em chăm sóc bầy nhỏ của ḿnh, hay là anh em chăm sóc bầy lớn của ḿnh. Ngài quan tâm.

71     Cách đây một thời gian, một trong những anh em tốt quí của tôi, chúng tôi ở dưới đó... đang câu cá ở một chỗ. Tôi đến, đă xong giờ nhóm, đang nghỉ ngơi. Chúng tôi đang câu cá bằng ốc sên, và chúng tôi bắt được một đống đủ thứ cá. Đêm hôm đó chúng tôi đang kéo thẳng cần câu, và chúng tôi thả mồi. Xế chiều, tôi đi ra bắt được một ít cá bluegill nhỏ, những con cá bé tí. Không thể... Những con cá lớn anh em có thể ăn chúng, nhưng loại cá này chỉ để làm mồi nhỏ. Tôi nhấc cần câu lên, và bắt chúng, bỏ vào một cái xô.

72     Người nào đó đập vào tôi, đang ngồi trên thuyền này. Cậu con trai này là một chứng nhân Đức Giê-hô-va, và anh cậu đă được cứu và đầy dẫy Đức Thánh Linh, v́ thế 2 người này đă ở với chúng tôi. Khi tôi bắt những con cá này, hết thảy chúng tôi, Điều ǵ đó đập vào tôi. Tôi nói, “Anh em biết đấy, sẽ có sự sống lại của sự sống nào đó, giống như một con vật nhỏ bé. Ồ, một con vật nhỏ bé à?

73     Vậy th́, nhiều người trong anh em c̣n nhớ về những điều đă đề cập đến về Lời, nói rằng, “Sẽ có một cậu bé sống lại từ kẻ chết, đă bị xe ô-tô đụng.” Anh Jack Moore ở với tôi tối nay, là người ở trên nước Phần-lan khi điều đó xảy ra. Hiểu không? Nhiều anh em ở đây c̣n nhớ tôi nói điều đó qua đây, đă bảo anh em viết nó vào trong quyển sách của ḿnh. Để ư.

74     Anh Woods đă quay lại, Anh Banks Woods, người có con trai được chữa lành bệnh bại liệt. Anh đă quay lại và nói với anh ḿnh, “Anh cứ nh́n đi, Điều ǵ đó sắp xảy ra.” Tôi cứ câu cá. Vậy là chúng tôi móc mồi vào cần câu bằng con cá đó.

       Đêm hôm ấy chúng tôi chẳng câu được ǵ.

75     Sáng hôm sau tôi nói, “Có một số cá bluegill ở đằng kia.”

76     Anh ấy nói, “Này, nhân đây, anh đă nói sẽ có sự sống lại của loại sự sống nào đó phải không?” Tôi đáp, ‘Phải.”

77     Tôi nói với anh em, khi tôi rời nhà, họ... Con gái nhỏ của tôi... Chúng tôi hầu như... Anh chị em có thể có chúng nếu anh chị em muốn, vậy th́, xem đấy, nhưng tôi đă lo sợ cho một con mèo. V́ thế tôi... tôi thật sự không thích cảm giác mê tín dị đoan anh chị em có khi ở gần chúng. V́ thế chúng tôi không muốn có chúng ở gần nhà, và tôi tin con mèo có thể nhận ra rằng tôi sợ nó. Ba tôi đă sợ mèo. Vậy nên con gái nhỏ tôi không biết có con mèo nào ở gần đó. Và...

78     Con gái nhỏ tôi bước xuống con đường nhỏ với bé gái khác, và nó trở về, mặt buồn rười rượi, và nó nói, “Ba ơi?”

       Tôi hỏi, “Ǵ thế con?”

       Nó nói, “Thật là kinh khủng.”

       Tôi hỏi, “Ǵ vậy?”

       Nói nói, “Nếu như ba biết.”

       Tôi nói, “Nói cho ba biết đi.”

79     Nó nói, “Người nào đó đă ném con mèo nhỏ đáng thương xuống đường ở đây.” Và nói, “Nó gần như chết rồi, không đi được nữa. Ba ơi, chúng ta đem nó về chăm sóc được không?”

80     Tôi nói, “Chắc chắn không. Nếu con muốn nuôi nó, hăy cẩn thận. Đừng để nó cào con. Hăy cho ba xem con mèo đó.”

81     Thế là chúng đem con mèo đó đến, tôi kiếm cái hộp, và dĩ nhiên, sáng hôm sau chúng tôi có cả đám mèo con.

82     Sau đó, con trai nhỏ của tôi, khi tôi đi, bé Giô-sép, đang nh́n nó. Ồ, nó nghĩ chúng đáng yêu, leo trèo, anh em biết đó. Và v́ thế, nó ôm một con trong tay; Nó ôm quá chặt và đánh rơi nó xuống nền nhà. Con mèo nhỏ bé ngất ngư. Tôi nghĩ: “Ôi chao ơi!”

83     Tôi nghĩ: “Chà, vậy th́, có lẽ đó là con mèo con ấy, khi ḿnh trở về nhà.” Anh em c̣n nhớ trường hợp con chuột túi không? Tôi nghĩ: “Có lẽ là con mèo đó.” V́ thế nên chúng tôi ngồi lại trong một cái vịnh nhỏ, câu cá, và chúng tôi bắt được cá bluegill, rồi ném nó xuống lại.

84     Anh Lyle, anh trai của Anh Banks,đang câu cá bằng một cây sào cuộn lại, cái móc thật to, và một đống sâu làm mồi. Anh ấy để cho con cá nhỏ đó nuốt cái lưỡi câu vào bụng. Khi kéo nó lên, anh nói, “Này, tôi muốn anh nh́n ở đó,” gần như điều đó kéo dài. Anh cứ... Anh ấy không thể kéo cái móc ra, tôi đoán vậy. Không có cách nào khác, chỉ cắt sợi dây. Anh muốn lấy lại lưỡi câu. V́ thế anh cứ kéo con cá đó, kéo bụng và ruột ra hết, giống như thế, rồi ném nó xuống nước. Nó quẫy nhẹ 3 hay 4 lần và cứ nằm ở đó. Anh ấy nói, “Anh ném miếng bánh cuối cùng của ḿnh rồi đó, anh bạn.”

85     Tôi nói, “Lyle à, khi nó bắt đầu cắn... Kiếm một cái lưỡi câu nhỏ hơn cái đó. Hăy lấy cần câu này đặt ở đây, khi nó bắt đầu cắn, hăy bắt nó. Hiểu không? Trước khi nó đến và nuốt mồi, mắc vào trong miệng nó. Đó là nghệ thuật câu chúng.”

86     Anh ta nói, “À, tôi có thể đă kéo lên không đúng,” Và cứ tiến hành. Anh ta thử vài lần, và bỏ lỡ khoảng 3 hay 4 con. Anh để nó xuống, nói, “Tôi sẽ để nó nuốt mồi lại lần nữa.”

87     V́ thế con cá nhỏ này nổi trên mặt nước ở đó khoảng 30 phút. Và mặt nước bắt đầu gợn sóng.

88     Tôi nói, “Ồ, chúng ta sẽ phải đi chẳng bao lâu nữa. Chúng ta có được một xô cá lúc này, vậy chúng ta sẽ phải ra về.”

89     Tôi đứng dậy, ném nó lại trên đám hoa huệ nước, và nó nhảy lên. Có một số cá bụng đỏ lớn ở đó. V́ thế tôi bắt đầu kéo mồi ra khỏi cần câu, búng nhẹ nó, như anh chị em biết về việc câu cá.

90     Khi tôi bắt đầu làm thế, đột nhiên, Điều ǵ đó giáng xuống qua các ngọn đồi, giống như một Cơn Gió ào đến. Và Nó đến trên tôi. Tôi đánh rơi cần câu, và đứng trên thuyền. Tôi nh́n quanh. Tôi nghe một Tiếng, “Ngươi thấy con cá nhỏ đó không?” Và nó ở đó, đang nằm đấy.

91     Tôi nói, “Ngươi thấy con cá nhỏ đó không?” giống như Ngài đă nói. Ở đó các vây nhỏ của nó bị cứng đơ, và nó nằm trên mặt nước nửa giờ. Kinh thánh này đang mở ra đặt ở đây giờ này. Hiểu không?

       Và Ngài Phán, “Hăy nói với nó, và cho nó trở lại với sự sống của nó.”

92     Tôi nói, “Hỡi con vá nhỏ, trong Danh Đức Chúa Jêsus, ta ban lại sự sống cho ngươi.”

93     Những người đang đứng đó, theo dơi. Con cá nhỏ bé ấy lật lưng lại, và nhảy xuống nước. Họ giống như ngất xỉu. Lyle rửa mặt trong nước. Anh nói, “Tôi sẽ tỉnh lại sau một lát. Tôi - tôi biết ḿnh đang mơ.”

       Tôi nói, “Anh không nằm mơ.”

94     Ngay lúc đó, tôi đoán tôi đă có những bảng danh sách xin cầu nguyện, 30 hay 40 trẻ em bị liệt co cứng. Đức Chúa Trời sẽ đi khắp nơi, từ những đứa trẻ bị liệt co cứng, và cho đến con cá nhỏ bé đó, nó thật sự cho thấy rằng Ngài quan tâm đến mọi sự.

95     Tại sao Ngài dùng quyền năng của Ngài để rủa sả cây vả. Và Phán, “Không người nào ăn trái của mày.” Th́ cây vả liền khô héo. Dùng quyền năng của Ngài, tỏ cho thấy Ngài quan tâm đến cây cối. Ngài quan tâm đến loài cá.

96     Ngài quan tâm đến anh chị em. Ngài quan tâm đến tôi. Ngài quan tâm đến Lời Ngài được bày tỏ, và Ngài tin chúng ta làm điều đó, v́ chúng ta là đại diện của Ngài. Không có điều ǵ trong chính chúng ta. Đó chính là Ngài; Chúng ta hăy đầu phục và bước đi với Ngài.

97     Thấy một khải tượng sáng hôm ấy. Tôi thấy một con thú lớn đang nằm trên sườn đồi. Ồ, nó có những cái sừng voi mamut. Trong khải tượng tôi đang đi săn, khoảng 10 hay 11 giờ trong ngày. Và tôi trượt qua và bắn con thú.

98     Rồi trên con đường phía sau, một con voi mamut, con gấu trúc to lớn đứng lên chống lại tôi, và tôi đă bắn nó.

99     Sau đó tôi thấy họ lấy những cái sừng, và một bàn tay nhỏ bé đưa ra lấy cái sừng, đặt băng ghi âm lên nó. Nó đo được 42 tấc Tây, từ đầu đến cuối sừng, 42. Tôi chưa bao giờ thấy con thú nào giống như thế, những đầu nhọn ở trên sừng nó. Tuy nhiên, nó trông giống như một con nai, nhưng nó, ồ, chà, làm thành 2 hay 3 con nai. Tôi không bao giờ thấy điều ǵ giống như thế.

100    Tôi nói, “Ồ, có lẽ sẽ ứng nghiệm ngày nào đó. Tôi sẽ ghi lai điều đó.”

101    Tôi đi xuống Kentucky với một trong những người bạn của tôi, và Anh Miner Arganbright đă gọi tôi, nói, “Anh Branham ơi, anh bận không?”

102    Nói, “Không bận lắm. Tôi đă ở... Tôi có được 2 tuần lễ lúc này. Tôi đang ở trong kỳ nghỉ ngắn ngày.”

103    Nói, “Hăy chạy lên Canada, tới bang Alaska với tôi. Chúng tôi muốn tổ chức một Hội Thương Gia [Tin Lành] ở Anchorage và cũng ở trên Fairbaks.”

       Tôi nói, “Nghe có vẻ tốt, nếu tôi có thể có th́ giờ để làm điều đó.”

104    Anh ấy nói, “Anh Branham à, nếu anh làm điều đó, tôi cho anh biết điều này, chúng tôi sẽ cho anh một chuyến đi săn gấu xám Bắc Mỹ tuyệt vời.”

105    Tôi nghĩ: “Ồ, nghe có vẻ tuyệt.” Tôi nghĩ: “Ồ, ồ, đó là khải tượng. Đấy, chính là nó.”

106    Tôi nói, “Một chuyến đi săn gấu xám tuyệt vời, nghe thật tuyệt. Tôi không đi v́ điều đó. Nhưng trong khi chúng ta ở trên đó, và có một số hướng dẫn viên miễn phí, tôi sẽ vui được đi.”

       Vậy, anh ấy nói, “Ồ, họ sẽ làm thế. Điều đó đă được chuẩn bị cho chúng ta.”

       Tôi nói, “Vậy th́, hăy đợi nào. Chúng ta hăy cầu nguyện cho điều đó.”

107    Tôi đi lên vào trong rừng ngày hôm ấy, và mỗi lần tôi cầu nguyện, mọi lúc, tôi càng đi xa hơn, hoàn toàn tránh khỏi điều đó. Tôi nghĩ: “Thật lạ.” 2 ngày sau đó, tôi gọi Anh Arganbright. Tôi nói, “Không.”

108    Anh ấy nói, “Anh Branham à, chúng tôi đă sắp đặt mọi thứ.”

109    Tôi nói, “Đừng làm điều đó. Đức Thánh Linh đă lên án điều đó.” Tôi nói với anh sự hiện thấy. Tôi nói, “Tôi không biết, Anh Arganbright à, nhưng thật là lạ. Ngài không cho tôi đi lên đó, và tuy nhiên, có vẻ như -- điều đó sẽ xảy ra.”

       Anh ấy nói, “Ồ, vậy th́, chúng ta đều sẽ đi.” Tôi nói...

110    Bây giờ, nhiều người trong anh em sẽ thấy Anh Arganbrigth. Anh ấy đến đây bây giờ, để sẵn sàng đi hải ngoại với tôi sau Buổi nhóm này. V́ thế anh em có thể hỏi anh ấy về chuyện đó. Chúng ta cũng nói vậy...

       Tôi nói, “Không. Tôi thật sự không thể làm điều đó. Đức Thánh Linh bảo tôi đừng đi.”

111    Tốt nhất là vâng lời, cho dù trông có vẻ tốt đẹp thế nào đi nữa, nếu Đức Chúa Trời không ở trong điều đó, hăy tránh xa nó. Cho dù nó trông có vẻ hào nhoáng thế nào đi nữa, hăy tránh xa nó. Trông có vẻ phồn thịnh thế nào đi nữa, hăy tránh xa nó nếu Đức Chúa Trời không ở trong điều đó. Hăy tránh xa nó. Chúng ta sẽ nói về điều đó tối mai, nếu Chúa cho phép.

112    Thế rồi khi tôi về nhà, Billy, con trai tôi, nói với tôi rằng, “Ba ơi, ba biết người đi săn mà ba đă đi săn mùa xuân vừa rồi ở trên đó, gần chỗ tên là Southwick không?”

       Tôi đáp, “Ồ, ở trên chỗ... dưới Yukon phải không?” Nó đáp, “Phải.” Nói, “Ông ấy có gởi cho ba một lá thư ở đây.”

114    Người đó là Anh Eddie Byskal, người đứng đầu Hiệp hội Mục sư Truyền đạo của miền Tây Bắc ở trên đó, một chàng trai rất tốt quí, có lẽ có mặt trong Buổi nhóm này ở đây. Anh ấy định đến vào lúc này. Một chàng trai trẻ tốt quí, và anh ấy có một gia đ́nh tử tế. Anh là Nhà Truyền giáo ở trên đó lúc này với những người da đỏ Cree. Tôi vừa ở với anh ấy mùa thu, hay đúng hơn là mùa hè vừa rồi.

115    Lúc ấy Eddie muốn đem tôi qua gặp Bud, là một trong những người đă trở lại với Đấng Christ của anh. Vợ người đó là một tín đồ Ngũ Tuần vững vàng. Bud là người chủ trại nuôi súc vật, anh ấy vừa mới đi vào. Nhưng anh đă được phân bổ, nơi mà người ta đuổi những người da đỏ đi và đưa họ vào vùng đất dành riêng cho người da đỏ, một lănh thổ rộng lớn để săn bắn. Khoảng 6... Ồ, tôi đoán anh ấy có khoảng 300 dặm vuông, hay nhiều hơn nữa, gần khoảng đó, một lănh thổ được chính quyền Canada chia cho anh.

116    Ồ, mùa xuân ấy, khi tôi đi lên đó, chúng tôi đă đi săn sau Buổi nhóm, nhưng khi chúng tôi... vào tháng 5, nhưng tiếng Si-núc (một thứ tiếng Anh-Pháp lẫn lộn ở Bắc Mỹ) đến và nó chia cách chúng tôi. Chúng tôi hầu như... Anh không hề nghe được ǵ về những Buổi nhóm, và Eddie cứ nói với anh về Buổi nhóm.

117    Anh ấy nói, “Anh không muốn nói với tôi về điều đó, ngày hôm nay, rằng Đức Chúa Trời đang bày tỏ chính Ngài, và tỏ cho thấy các sự việc đang đến trước khi điều đó xảy ra chứ?”

       Eddie nói, “Điều đó hoàn toàn chính xác.”

118    V́ thế anh ấy cứ nói chuyện với tôi. Anh nói, “Anh biết đấy, tôi có một người anh bị bệnh động kinh. Nếu như anh có thể đến với anh ấy, tôi tin, tôi có thể đem anh ấy đến với một trong những Buổi nhóm của anh, tôi tin anh ấy sẽ được chữa lành.” Tôi nói, “...Anh ấy đă có điều đó suốt cuộc đời ḿnh.”

       Tôi nói, “Có lẽ vậy.”

119    Ồ, trời không tối ở trên ấy vào thời gian đó trong năm, anh biết đấy. Mặt trời vừa lặn, và... Ồ, anh có thể, bất cứ lúc nào, vào nửa đêm, một giờ sáng, anh có thể cứ đứng và đọc báo, hay bất cứ cái ǵ, anh biết đấy. Gần - gần cuối tháng 5, mặt trời không bao giờ lặn. Nó chỉ đứng trơ trọi trên đỉnh, khoảng 10 phút, rồi trở lại. V́ thế chúng tôi nằm xuống khi nào chúng tôi mệt mỏi.

120    Rồi trên đường đi ra, chúng tôi gặp một đám người da đỏ. Ồ, tôi gặp tù trưởng già phía sau đó. Họ để ông ấy ở lại đó bởi v́ ông có 2 đứa con. Họ chôn con cái họ trong khúc cây, những người thân yêu của họ. Hầu như là loại niềm tin nào đó. Họ treo chúng trên cây, vậy họ để gia đ́nh ấy ở lại đó. Ông già ấy, hơn 90 tuổi, ngồi lên trên yên ngựa khỏe giống như một trong các con trai của ḿnh.

121    Vậy là chúng tôi ra đi ngày hôm sau. Ông ấy nói, “Không có con đường nào băng qua lúc này. Hăy đi lên núi và đi lối này.” Ồ, đó là con đường ṃn khác dài 100 dặm. V́ thế chúng tôi không thể làm điều đó. Trời quá chiều. Chúng tôi bắt đầu trở về.

122    Trên đường về, Bud có một đàn ngựa non, và một số con “got down in muskeg and things.” Tôi đang đi dọc theo đó và nói chuyện với Eddie. C̣n Bud đi với con ngựa đầu đàn, cố đi ra ngoài. Chúng tôi có 21 con ngựa, và tôi có một sợi dây thừng trên mỗi con. Khi nào nó đi ra ngoài, th́ cái yên ngựa của tôi kéo vào. Và tôi ở đấy, ở ngoài đó. Tôi đầy bùn. Trong vài phút, tôi nhảy lên lưng ngựa, chùi bùn vào quần áo của ḿnh, giống như thế và khởi hành.

123    Ngay phía trước tôi, phía bên kia ngọn đồi đó, một người thanh niên đến. Tôi nh́n anh. Tôi lùi lại và ngừng ngựa. Tôi đă thấy anh ta ngất xỉu, hết lần này đến lần khác lại, và sùi bọt mép, và trở nên ngạo mạn, phá đổ mọi thứ. Sau đó anh ta nằm im. Tôi thấy một người chịu sức nóng. Tôi thấy áo sơ-mi của người đó cháy.

124    Eddie ở cách tôi khoảng đường, cố gắng kiếm một con ngựa khác. Con ngựa non chạy ra ngoài con đường ṃn, đi qua ở đằng kia, kéo anh ta đi ngược lại. V́ thế tôi chạy đến chỗ Eddie. Chúng tôi làm cho con ngựa đứng yên. Tôi nói, “Eddie à, tôi có LỜI CHÚA PHÁN NHƯ VẬY dành cho Bud.”

       Anh ấy nói, “Anh Branham ơi, điều ǵ đă xảy ra?”

       Tôi nói, “Một khải tượng. Tôi thấy anh trai của anh.”

       Anh ấy nói, “Ồ, hăy đến chỗ anh ấy.”

125    Tôi nói, “Giữ con ngựa đứng yên. Tôi sẽ thúc ngựa của tôi tiến lên. Chạy gần những con ngựa đó, xem thử tôi có đến được chúng và giữ chúng dựa theo sườn đồi không.”

126    Tôi chạy lại sườn đồi, giống như thế này... trên lưng ngựa. Kéo nó lên, và lên trên đó. Tôi đặt tay trên yên. Tôi nói, “Bud hả?”

       Anh ấy nói, “Vâng, thưa Anh Branham.”

127    Tôi nói, "Tôi muốn nói với anh đôi điều. Anh trai của anh...” và mô tả anh ra.

       Anh ấy nói, “Đúng. Ai bảo với anh?”

       Tôi nói, “Không ai cả. Chúa vừa tỏ cho tôi thấy anh ấy.”

       Anh nói, “Tất nhiên rồi, Anh Branham à.”

128    Tôi nói, “Gởi xuống -- cách xa nền văn minh gần 800 dặm, khiến anh trai của anh đến đây. Lần đầu anh ấy bị ngất xỉu... Anh ấy đă bị như thế này kể từ lúc gần 2 tuổi. Anh có thể không tin điều đó, nhưng đó là bệnh di truyền. Ông nội anh đă bị bệnh đó.”

       Anh ấy nói, “Vậy th́, điều đó là sự thật. Đúng thế.”

129    Tôi nói, “Bây giờ, khi anh ấy bị ngất xỉu, anh hăy cởi áo sơ-mi của anh ấy và ném nó vào trong lửa, và nói, ‘Ta làm điều này trong Danh Đức Chúa Jêsus Christ, theo Lời Ngài.’ Anh ấy sẽ không bao giờ bị ngất xỉu nữa, miễn là anh ấy tin.”

130    Anh ấy giơ tay lên và la lớn. Anh nói, “Tôi chưa bao giờ thấy điều đó thực hiện, nhưng anh chắc chắn bảo tôi đúng anh ấy như thế nào, và bảo tôi sự thật về ông nội tôi.”

       Tôi nói, “Đúng thế.”

131    Say khi chúng tôi ra đi, anh ấy đi kiếm anh trai ḿnh. Anh định đi đến sáng hôm ấy. Khi anh đến trên xe buưt, đi ngang qua chúng tôi, cách đây 2 hay 3 tuần, đi lên đi xuống đại lộ Alaska. Anh ta đă khỏi bệnh.

132    Vợ của Bud là Lila, một người đàn bà nhỏ nhắn, một phụ nữ thân thiện, lớn khoảng bằng một cái bánh xà-pḥng sau khi một gia đ́nh giặt rửa. Thật là một... Có 5 người con, và là một phụ nữ đáng yêu.

133    Vậy là Bud đi ra để chuẩn bị những con ngựa của ḿnh, v́ anh định đi đường tắt, để chúng tôi có thể trở lại trong đó với những người thợ săn của anh.

134    Ngay khi anh ấy đi, anh trai của anh ở trong đó, chưa cởi quần áo ra, đă bị ngất xỉu. Người đóng trại trong một doanh trại cũ, nơi những người Mỹ, khi họ xây đại lộ, đă có ở đó. Và khi... Họ có một vật chịu nóng to lớn như cái ḷ. Và Lila... Anh trở nên hung dữ khi lên cơn. Chị ấy sợ anh ta đến chết, và chị muốn đi ra phía bên ngoài để lau sạch cửa sổ, hay điều ǵ đó. Nhưng chị bèn nhảy ra, chị nghĩ về điều đă được nói. Chị đă dự một trong các Buổi nhóm ở dưới Dawson Creek.

135    Chị vội vàng đi qua đó và giang chân anh chàng to lớn này, giật mạnh cái áo sơ-mi ra, bứt nút, bước tới ném vào cái ḷ và nói, “Tôi làm điều này trong Danh Đức Chúa Jêsus Christ, theo Lời của Đức Chúa Trời đă bảo chúng ta.” Và anh ấy không hề lên cơn lại một lần kể từ đó. Đă xong rồi.

136    Anh cho người mời tôi đến để đi săn miễn phí. Tôi luôn trông đợi những thứ miễn phí, anh em biết đó. V́ thế tôi nghĩ... tôi nói, “Ồ, ḿnh sẽ đi. Ḿnh sẽ xem thử Chúa có cho ḿnh đi không.” Tôi đă cầu nguyện. Thật sự không ǵ hơn sự cầu nguyện, mọi sự được tốt đẹp bằng cách đó.

137    Tôi mang theo Anh Fred Sothmann. Anh ấy có ở đây trong Buổi nhóm này. Anh ở đâu, Fred? Kia ḱa. Đúng thế. Anh ấy là một trong những Chấp sự của Hội thánh chúng tôi. Anh Fred biết rằng điều này đă được nói cách đây 3 tháng trước khi nó xảy ra. Đúng thế không, Anh Fred? Và, tôi nghĩ Anh Simpson. Bao nhiêu anh chị em trong Nhà thờ này tối nay biết điều đó, đă được nói trước khi nó xảy ra? Hăy giơ tay lên. Anh chị em thấy đó. Đă được nói trước Hội thánh, chính xác điều ǵ sẽ xảy ra. Ồ, tôi không biết điều này xảy ra lúc nào.

138    V́ thế tôi đi lên -- tới đại lộ Alaska, và Anh Fred ngừng lại ở nhà một người bạn, đi săn nai sừng tấm. Đi săn nai sừng tấm cách đó quá xa. Chúng tôi đi vào xứ nuôi cừu, nơi chúng tôi đang đi. Và chúng tôi... Tôi lấy một mẫu đất, và vẽ trên kính chắn gió. Tôi nói, “Này, Anh Fred, vậy nếu đây là lúc, anh sẽ nhớ chính xác điều ǵ sẽ xảy ra.” Anh ấy đă nhớ điều đó.

139    Tôi cứ đi tiếp. Đêm hôm đó chúng tôi vào trong trại. Bud nói, “Anh Branham à!” Anh ấy ôm chầm lấy tôi và nhảy lên nhảy xuống,nói tiếng lạ, anh em biết đấy. Anh nói... anh cũng là một anh chàng chăn ḅ thô lỗ. Anh - anh cứ ngợi khen Đức Chúa Trời. Anh nói, “Anh biết ǵ không, Anh Branham?Anh trai tôi đă không bị ngất xỉu nữa từ lúc đó. Anh ấy hoàn toàn b́nh thường và khỏe mạnh, từ năm trước.”

140    Tôi nói, “Chừng nào anh ấy c̣n tin điều đó, th́ sẽ cứ khỏe mạnh như vậy.” Tôi nói,”Bây giờ hăy bảo anh ấy dâng đời sống ḿnh cho Đấng Christ, và hầu việc Ngài trong những ngày c̣n lại. ‘Hăy đi và đừng phạm tội nữa, kẻo e điều xấu hơn sẽ đến với anh ấy.’ Hiểu không?” Tôi nói, “Bảo anh ấy làm điều đó ngay.”

141    V́ thế tôi nói, “Tôi có một khải tượng khác,” và tôi bảo anh ấy về khải tượng. Tôi nói, “Bây giờ, có một số người đi với tôi. Chúng ta đang đi săn. Họ là những người nhỏ con. Và một trong những người đó mặc áo sơ-mi hàng len sọc vuông, màu xanh lá cây.”

142    Anh ấy nói, “Ồ, Anh Branham à, tôi không thấy người nào mặc áo sơ-mi màu xanh lá cây.” Blaine, con trai anh, 18 tuổi, nói cậu ấy không có áo sơ-mi sọc vuông màu xanh lá cây.

143    Eddie Byskal, một người nhỏ nhắn khác, cân nặng khoảng 55 kí, nói, “Tôi cũng không có áo sơ-mi nào như vậy, Anh Branham à.”

       Tôi nói, “Ồ, này, con vật mà...”

       Anh ấy nói, “Con vật loại ǵ?”

       Tôi nói, “Nó trông giống như một con nai.”

144    Anh ấy nói, “Không có nai ở trên đó. Nơi ấy quá cao. Có lẽ là con tuần lộc.”

       Tôi nói, “Tuần lộc có ô.”

       Nói, “Đúng thế.”

       Tôi nói, “Con này có những que nhọn.”

145    Anh ấy nói, “Ồ, Anh Branham à, chúng ta đang đi tới vùng nuôi cừu, không phải vùng nai hay thứ ǵ giống như thế.”

146    Tôi nói, “Ồ, có lẽ là chuyến đi khác. Anh Arganbright... Có lẽ là nơi nào đó ở Alaska, bởi v́ đó là một con gấu xám Bắc Mỹ to lớn, mamút.”

       Anh ấy nói, “Đó là loại gấu xám ǵ?”

       Tôi nói, “Đầu bạc.” Đó là loại gấu nổi tiếng nhất trong tất cả các loài gấu.

147    Anh ấy nói, “Tôi là người dẫn đường. Tôi đă ở trong những cánh rừng này ở đây suốt đời. Tôi chưa hề thấy một con gấu đầu bạc. Tôi đă thấy những con gấu xám già thông thường. Nhưng tôi chưa hề thấy gấu đầu bạc, chưa hề thấy một lần trong đời.”

148    Tôi nói, “Thế th́, có một con ở đâu đó, và tôi sẽ kiếm nó.”

       Anh ấy nói, “Tôi sẽ nói đó là sự thật. Tôi sẽ nói điều đó.”

149    Chúng tôi ở đó 3 ngày. Chúng tôi cắm trại trên bờ ŕa biên giới.

150    Đức Chúa Trời vùa giúp tôi, nếu họ ở lại cách đó cho tới Ngàn năm B́nh an, xin để cho tôi sống ở đó suốt Nàng năm B́nh an. Tôi thật thích tắm ḿnh trong thiên nhiên ở đó. Ồ! Bất cứ ai không thể thấy Đức Chúa Trời ở đó, th́ là người bị mù, điếc, và câm. Chỉ để thấy Ngài phản ảnh chính Ngài trong những ngọn núi cao, hùng vĩ ấy! Ôi chao ơi! Vực gọi vực, thế th́, ở trên đó thật sự có một th́ giờ vinh hiển.

151    V́ thế chúng tôi đi tiếp lên một ngọn núi. Anh em chỉ phải đi thẳng, giống như thế, để đi lên đó. Ồ, không có khúc gỗ, chỉ đơn giản là rêu tuần lộc. Chúng tôi thấy khoảng 30 hay 40 cái đầu cừu. Không có ǵ lớn hơn để săn. Nó chỉ là nửa ṿng bán nguyệt, hay 3/4 ṿng bán nguyệt. Tôi muốn một ṿng đủ lớn để đi ra đó, v́ thế tôi đi trở lại. Vậy là chúng tôi... Tôi đi trở xuống.

152    Ngày hôm sau chúng tôi khỏi sự đi ngang qua, và Eddie ngă vào nước khi anh bắt đầu nhảy qua, mang một đôi giày lớn.

153    Đi lên phía dăy núi, Bud ngừng lại và nói, “Cho tôi mang kính của anh, Billy.” Tôi đưa kính cho anh.

154    Chúng tôi đi bộ một chút và nói chuyện về Chúa, và la lớn, rồi chạy lên chạy xuống phía đồi, thật sự có một th́ giờ vinh hiển. Thật là chuyến đi săn tốt, nếu anh em đi với các anh em.

155    Vậy anh ấy lấy kính của tôi. Anh nói, “Anh Branham à, đó là chiên đực của anh. Có khoảng 8 con đang nằm khoảng 6 dặm, ngay trên đỉnh núi kia. Nh́n chúng ḱa. Thấy chúng nằm với nhau không?”

       Tôi nhặt súng lên. Tôi nói, “Tôi sẽ nói chúng ở đó đấy, chính xác.”

156    Anh ấy nói, “Ồ, chúng ta có thể đi trở xuống, bắt đầu buổi sáng khoảng 3 giờ. Chúng ta nên ở trên đó lúc 9 hay 10 giờ. Những con chiên đực sẽ nằm xuống. Đó là th́ giờ tốt.”

       Tôi nói, “Những con ǵ khác ở gần đó?”

157    Tôi Nói, “Đó là con tuần lộc.” Tôi nói... Vậy, cách xa 6 dặm, anh em biết đấy, thật khó để nói chúng trông giống như cái ǵ.

158    Và rồi, từ đó trở đi, 600 dặm, theo đường chim bay, không có một con đường nhỏ hay lối ṃn. Khi anh em đụng miền Tây Duyên hải, anh em đi khoảng 800 dặm tới Vancouver, thậm chí không có một dấu vết của nền văn minh. Đi lối này, là Anchorage, khoảng 700 hay 800 dặm. Đi trở lại đường này, anh em chạy vào thành phố nhỏ, Yellow Knife, ở đó anh em t́m thấy một con tàu ở đó từng năm trước dành cho người Eskimos. Và kế đến, anh em tới nước Nga. V́ thế anh em thật sự đối diện với chính ḿnh. Đó là nơi Đức Chúa Trời có thể nghỉ ngơi trên đó, khỏi mọi phiền toái và thử thách của chúng ta mà chúng ta đặt vào Ngài. V́ thế tôi thích đi lên đó và nói chuyện với Ngài khi Ngài đang nghỉ ngơi, anh em biết đấy, lúc đó giống như tối hôm qua trên con tàu.

159    Chúng tôi trở xuống, và sáng hôm sau chúng ta khởi hành sớm. Khoảng 8 giờ, chúng tôi đă mệt đứt hơi (wound through) v́ trèo qua dốc “Shintangle” và mọi thứ cho tới khi chúng tôi lên tới đỉnh đồi. Trên đường đi lên, ở đây có một con tuần lộc cái già, và một con trâu đực. Nó đi, bắt đầu đi lên đồi, và mang trên người nó những ô vải lớn. Tôi nói, “Ồ, và v́ thế đó là con tuần lộc đầu tiên mà tôi từng thấy trong rừng, hoang dă. Tôi chưa hề thấy ở độ cao này trước đây.”

       Anh ấy nói, “Đúng thế. Đó là một con tuần lộc.”

160    Vậy là chúng tôi tiếp tục đi lên đồi và nh́n. Chiên cừu không có ở đó. Cho nên Bud và tôi bước loanh quanh. C̣n Eddie bắt đầu đi loanh quanh, và Blaine, con trai anh, nh́n bao quát coi có con thú ǵ không.

161    Chúng tôi bước qua đó, và ồ, chao ôi, tôi la lớn lên, “Vinh hiển thay Đức Chúa Trời!” Tôi nh́n xuống dưới đó, và ở đó là những đỉnh núi trắng phủ tuyết; Con tuần lộc vàng phủ rêu dưới tuyết. Ngay phía dưới đó trong đám cây trường sanh, là cây vân sam nhỏ bé. Và xa hơn dưới đó, có con hươu đực đuôi chồn màu đỏ. Xa hơn một chút, là cây dương lá rung rinh. Màu vàng. Tất cả đều phản ánh trong mặt hồ dưới nó. Ôi chao ơi!

162    Bud và tôi choàng tay nhau, và cứ nhảy chung quanh ở đó, cứ la hét và kêu lớn, Ngợi khen Chúa! Rồi chúng tôi ngồi xuống cầm tay nhau, cứ Ngợi khen Chúa! Và đă có một th́ giờ tuyệt vời, khoảng 2 giờ đồng hồ.

163     Tôi nói, “Này, không biết Eddie trở nên ǵ?” Chúng tôi gọi anh ấy là “Công tử bột.” V́ thế, chúng ta đi trở lại. Chúng ta bắt đầu băng qua đồi. Tôi nói, “Anh ấy không thể bị lạc ở đây.”

164    Và nói, “Không. Blaine ở đâu đó phía sau, và cậu ấy là người da đỏ.”

165    Khi tôi nh́n quanh, và thấy một máy quay phim đang đặt ở đó. Tôi nói, “Đó là của Eddie.” Tôi nh́n lại dưới đồi. Và tôi đi qua lối này, anh ấy đă đi lối khác.

166    Eddie đang đi. “Xuỵt-xuỵt-xuỵt-xuỵt.” Anh ấy đang đuổi theo con tuần lộc nhỏ. Anh định đuổi nó xuống dưới, cho những người bạn người da đỏ mà anh đang truyền giáo. Anh bắn con tuần lộc. Chúng tôi đi ra và nó mất dấu.

167    Trở lại, trời khoảng một giờ. Chúng tôi t́m thấy những con ngựa đóng yên của chúng tôi lại, chúng đang đứng cách đó khoảng nửa dặm. Chúng tôi đứng đó. Anh ấy nói, “Anh Branham à, anh thích đi bộ hả?”

       Tối nói, “Chắc chắn là tôi thích.”

168    Anh ấy nói, “Nếu chúng ta cân được núi này... Những chiên đực băng qua lối này, và có thể đi xuống trong cái hố kia ở đó. Nếu không, chúng đi trở lại lối khác. Chúng ta hăy để Eddie và những người đi về, và đi qua lối tắt này ở dưới đó, và lấy con ngựa có đóng yên của tôi và của anh, và mang con tuần lộc tới lều. Rồi chúng ta sẽ đi bộ qua nơi này và gặp chỗ đó. Chúng ta sẽ gặp nhau vào 10 hay 11 giờ tối nay.

       Tôi nói, “Tốt. Chúng ta sẽ làm thế.”

169    V́ thế, chúng tôi đứng đó. Chúng tôi mỗi người chỉ ăn một hộp cá ṃi. Chúng tôi chôn dưới rêu những hộp cá ṃi này. Và bánh ḿ, chúng tôi để trong áo sơ-mi, và ướt mồ hôi cho đến nỗi chúng trở thành một tảng lớn. Nhưng nó thật tốt khi anh em đói bụng. Nó c̣n ăn được. Vậy là, chúng tôi đứng ở đó.

170    Tôi cứ nh́n quanh. Tôi nh́n qua cặp kính, tôi nói, “Bud à, nh́n đây này. Ở đằng kia là cái ǵ vậy?”

171    Cách đó khoảng 3 dặm, con tuần lộc nằm ở đó. Nó là một con tuần lộc lẻ loi. Không phải những ô vuông; Nó là những nhánh lớn. Tôi nói, “Anh c̣n nhớ không? Hăy nh́n đây. Đó là quang cảnh ấy; Hoàn toàn chính xác. Và ở đó con vật ấy nằm đó, đúng cách ấy.” Tôi nói, “Có một điều duy nhất cản trở khải tượng, người nào đó mặc áo sơ-mi ca-rô màu xanh lá cây.” Và Eddie đă đứng đó mặc áo sơ-mi ca-rô màu xanh lá cây. Tôi nghĩ: “Tôi nghĩ anh không có cái áo nào màu xanh lá.”

172    Anh ấy nói, “Vợ tôi phải đặt nó vào trong gói. Khi tôi ngă vào nước ngày hôm qua, phải thay áo sơ-mi.” Anh nói, “Tôi không biết nàng đặt nó ở trong đó, Anh Branham à. Tôi xin lỗi tôi đă nói không đúng với anh.” Tôi nói, “Anh chỉ phải làm điều đó, anh bạn trẻ à.”

173    Ồ, Bud bắt đầu la lớn. Anh ấy nói, “Anh có thể đứng ngay tại đây và bắn nó, cách xa 3 dặm. Được không, Anh Branham?”

       Tôi nói, “Theo như khải tượng, tôi ở ngay bên nó.”

174    Anh ấy nói, “Anh Branham à, anh định đến nơi đó bằng cách nào?”

       Tôi nói, “Tôi không biết, nhưng tôi sẽ qua nơi đó.”

       Anh ấy nói, “Bằng cách nào?”

       Tôi đáp, “Đi quanh toàn cảnh này.”

175    Anh ấy nói, “Đó là đá phiến sét.” Và tôi... nói, “Nếu anh trượt, anh sẽ có hàng ngàn tấn tuyết đè lên anh trong một giây.”

176    Tôi nói, “Chúa sẽ lo liệu điều đó. Đó là cách tôi đă đi, trong khải tượng.”

       Anh ấy nói, “Ồ, tôi sẽ đi theo anh.” Rồi anh ấy đi.

177    Những chàng trai này nói, “Chúng tôi sẽ ở lại đây cho tới khi chúng tôi thấy anh có được con tuần lộc ấy,” và họ nói, “lúc ấy chúng tôi sẽ tiếp tục đi xuống, lấy ngựa và đi tiếp vào. Chúng ta sẽ gặp anh ở dưới cuối đường, khoảng 4 hay 5 dặm phía dưới.”

       Anh ấy nói, “Được rồi.”

178    Vậy là chúng tôi đi ṿng quanh, Bud và tôi. Trong nửa giờ, chúng tôi đi ṿng lại. Con tuần lộc đó đang nằm ngay tại đấy, nh́n thẳng vào chúng tôi, mà không hề thấy chúng tôi. Nó chắc là đă buồn ngủ. Đi thẳng lên một lối đi nhỏ, và trở lại, và tiến gần nó trong ṿng 30 thước Tây. Nó nằm ở đó. Con vật to lớn giống như voi ma mút này đứng lên ngay tại đó, và tôi đă kiếm được nó.

179    Trong khi chúng tôi đang ngồi ở đó, Bud nói, “Anh nói những cái sừng này là 42 tấc Tây à?”

       Tôi nói, “Hoàn toàn chính xác.”

180    Anh ấy nói, “Anh Branham à, chúng phải là 142 tấc Tây,” cái đầu thật to.

       Tôi nói, “Không. Nó chính xác là.”

       Anh Nói, “Tôi có thước dây ở dưới đó.”

       Tôi hỏi, “Anh nghi ngờ điều đó à?”

       Anh ấy nói, “Không, thưa anh.”

181    Anh nói, “Nhưng, chờ một chút, anh đă chẳng bảo tôi anh sẽ có được con gấu xám trước khi anh xuống lại dưới đó ư? Có một con gấu đầu bạc, trước khi anh trở lại nơi có chàng trai mặc áo màu xanh lá cây?”

       Tôi nói, “Đó là sự thật.”

182    Anh nh́n lại xuống đồi. Ồ, không có cái ǵ cao chừng đó chút nào. Chỉ có rêu từ dặm này qua dặm khác, những ngọn đồi đầy rêu. Anh ấy hỏi, “Nó ở đâu. Anh Branham?”

183    Tôi nói, “Ngài có thể sắm sẵn một con. Ngài đă Phán vậy. Anh nghi ngờ điều đó chăng, Bud?”

       Anh ấy đáp, “Không, thưa anh.”

184    Đi xuống đồi, chúng tôi trở nên giống như thế này. Anh ấy mang khẩu súng trường một lát, c̣n tôi cái đầu và ngược lại. Phải đi dọc theo lối đi, bước xuống, những cáo sừng to cào vào rêu. Chúng tôi đi trong một dặm rồi ngừng lại và nh́n quanh. Anh ấy nói, “Con gấu to đó tốt hơn nên lộ ra, phải không?”

       Tôi nói, “Anh lấy làm phiền điều ǵ?”

       Anh ấy đáp, “Không.”

185    Chúng tôi đi tiếp cho tới khi gặp một con sông băng nhỏ băng qua. Chúng tôi ngồi xuống đó cho mát một chút. Nói, “Anh Branham này, chúng ta c̣n ít nhất hơn nửa dặm mới gặp lại những thanh niên đó, và ở nơi nào đó giữa nơi này anh sẽ giết con gấu đầu bạc.”

186    Tôi nói, “Đúng thế. Đúng thế.” Anh ấy... Tôi nói, “Anh đang nghi ngờ điều đó, Bud à.”

187    Anh ấy đứng lên và cầm tay tôi. Anh nói, “Anh Branham, anh trai tôi không bao giờ xỉu từ ngày đó đến nay. Đức Chúa Trời có thể nói với anh về anh trai tôi, sẽ không nói dối với anh.”

       Tôi nói, “Bud, nó sẽ ở đằng kia.”

       Anh ấy nói, “Nó sẽ từ đâu đến?”

188    Tôi nói, “Tôi không biết.” Tôi nói, “Bud à, tôi 52 tuổi,” lúc đó. Và tôi nói, “Tôi đă thấy khải tượng, từ khi c̣n bé. Khi tôi thấy con tuần lộc này ở đây, đă bị giết, và anh thấy những cái sừng của nó không phải là 42 tấc Tây. Và rồi, cũng khải tượng ấy, trên đường tôi trở xuống với những người đồng hành đó, mà tôi đă đi với, tôi đă giết con gấu xám bạc đầu này.”

       Anh ấy nói, “Anh Branham à, tôi có thể thấy xa 20 dặm.”

189    Anh nói, “Đức Chúa Trời sẽ kéo nó ra khỏi mặt đất, và mang nó xuống từ các từng trời, hay điều ǵ đó.”

       Tôi nói, “Anh đừng lo. Nó sẽ có ở đó.”

190    Chúng tôi đi khoảng mấy trăm thước nữa. Anh ấy hầu như cũng kiệt sức. Con vật này nặng khoảng 150 cân Anh. V́ thế, đi xuống đồi, và anh em đặt nó xuống. Anh ấy nói, “Chà! Tôi gần như kiệt sức.”

191    Tôi nói, “Đúng thế.” Chúng tôi đi vào một đám vân sam thấp lè tè. Có vài con vịt trời bay chung quanh, và có những con gà gô trắng xám, và tôi lấy vài viên đá ném vào chúng như thế.

       Anh ấy hỏi, “Anh đă ăn thịt gà gô trắng xám đó chưa?”

       Tôi đáp, “Không. Tôi nghĩ là vậy.”

192    Anh ấy nói, “Chúng tốt, tốt như ngỗng.” Anh ấy nói, “Anh Branham?” Anh lấy cái mũ màu đen rộng vành ra, và quạt cho ḿnh. Nói, “Gần đến giờ con gấu già đó lộ ra, phải không anh?

       Tôi nói, “Bud, anh đang nghi ngờ điều đó.”

193    Anh ấy nói, “Không. Tôi không nghi ngờ. Nhưng Anh Branham à, tôi - tôi thật sự không thể hiểu được.”

194    Tôi nói, “Tôi cũng không. Điều đó không phải dành cho tôi hiểu. Nó dành cho tôi tin.” A-men! Đức Chúa Trời trên Trời biết những điều này có thật. Tôi đứng ở đây và nói điều này,nó không có thật sao?”

195    Sau đó tôi bắt đầu quay lại, và đưa khẩu súng cho anh ấy, và tôi nhấc cái đầu lên. Khi tôi quay lại, tôi nói, “Bud à, anh mang kính ở quanh cổ anh. Cái ǵ đang đứng phía bên kia đồi?”

196    Anh ấy đưa kính lên. Anh nói, “Ồ, giúp tôi,” nói, “Nếu đó không phải là con ḅ cái của người nào đó!” Không có chuyện như thế ở vùng đó. Nói, “Đó là một con gấu xám lớn nhất tôi từng thấy trong đời. Vậy hăy giúp tôi, hăy nh́n mặt trời màu vàng đang chiếu sáng kia. Nó là con gấu bạc đầu.” Nói, “Anh nói nó cách xa bao nhiêu?”

197    Tôi nói, “Nó cách đây khoảng 2 dặm.” Chúng tôi hầu như kiệt sức. Anh ấy... Tôi nói, “Chúng ta đang chờ đợi ǵ? Hăy đi nào.”

       “Anh tin chắc bắt được nó à?”

       “Chắc chắn tôi bắt được nó.”

       Anh ấy nói, “Khẩu súng mà anh đang dùng đó là súng ǵ?”

198    Tôi nói, “Nào, đừng quan tâm về điều đó.” Nó là một khẩu súng nhỏ xíu người anh em nào đó cho tôi trong một Buổi nhóm cách đây nhiều năm. Tôi nói, “Một khẩu súng nhỏ rẻ tiền cỡ 270.” Và tôi nói, “Được rồi.. Tôi... đă có được...”

199    Chúng tôi cứ tiến đến gần hơn một chút. Chúng tôi càng đến gần, con gấu trông càng lớn hơn. Ồ, nó trong giống như một con voi ma mút đang nằm trên đám rêu đó. Con voi ma-mút to lớn ấy đứng lên, cái đầu to, anh em biết đấy, cái hàm và móng vuốt to lớn nó giương ra. Nó đang gặm những nhánh dâu tây dại, đang ăn chúng. Một con vật to lớn! Chúng tôi cách nó khoảng 800 thước.

200    Anh ấy nói, “Này, Anh Branham, anh đă bao giờ bắn một con gấu xám trước đây chưa?”

201    Tôi nói, “Tôi đă bắn nhiều con gấu, Bud à, nhưng tôi chưa hề bắn một con gấu đầu bạc trước đây.”

202    Anh ấy nói, “Anh biết đấy, gấu đầu bạc là con vật hung dữ lớn nhất trong loài của chúng.”

       Tôi nói, “Đúng thế, tôi hiểu điều đó.”

       Anh nói, “Nó không biết chết như thế nào.”

       Tôi nói, “Vậy à?”

203    Anh ấy nói, “Đừng... Anh cách nó bao xa? Anh phải đến gần nó bằng cách nào?”

204    Anh em cứ hỏi anh ấy. Viết thư hỏi anh ấy. Tôi sẽ đưa địa chỉ cho anh em. Anh ấy nói, “Hăy để cho bất người nào viết thư cho tôi hỏi về điều đó, nếu muốn. Hăy để tôi nói cho họ biết.” V́ thế...

       Tôi nói, “Tốt.”

       Anh nói, “C̣n bây giờ th́ sao?”

205    Tôi nói, “Không, không. Tôi đến gần hơn lúc này, Bud à. Tôi đến ngay, gần với nó.”

206    Anh ấy nói, “Chúng ta đang đến khá gần lúc này. Nó có thể thay đổi bất cứ lúc nào.”

207    Tôi nói, “Tôi biết điều đó. Nhưng, Bud à, sẽ ổn thôi.”

208    Anh ấy nói, “Vậy th́, khi anh bắn một con gấu, Anh Branham à, anh bắn nó ở phía sau. Anh phải hạ gục nó, v́ nó sẽ cứ chống trả, và không thể đứng dậy lúc ấy.”

       Tôi nói, “Không, theo như khải tượng, tôi bắn vào tim nó.”

       Anh ấy nói, “Tôi hi vọng anh không phạm sai lầm về điều đó.”

209    Tôi - tôi nói, “Không. Tôi nhớ điều đó.” Bởi v́, trong một khải tượng, anh - anh em ở trong ư thức, và cả hai, như chúng ta đă giải thích điều đó đêm nọ. Anh em ở trong 2 trạng thái. Anh em không thể quên điều đó. Hiểu không?

210    Vậy chúng tôi lại tiến vào, khoảng 250 thước Tây. Đó là chỉ là khe sâu cuối cùng chúng tôi đi qua. Tôi nói, “Gần như là điều đó lúc này. Hăy nh́n nó. Nó chẳng là con vật đẹp đấy sao?”

       Anh ấy nói, “Vâng, tôi nghĩ nó đẹp.”

211    Tôi nói, “Được rồi, Bud. Vậy th́ khi tôi đứng lên từ chỗ này, nó đang đến.” Tôi nói, “Anh cứ nh́n xem.”

       Anh ấy nói, “Tôi sẽ theo dơi.”

212    Vậy là tôi mang đạn trong ṇng súng vào. Chúng tôi đi xuống dưới khe sâu nhỏ này. Ngay khi tôi đứng dậy, nó đến. Ôi chao ơi! Tôi ngừng lại, bắn, và có vẻ như là một ống x́ đồng trúng nó. Không cần phải kiểm tra lại chút nào. Và, chao ôi, trước khi...

213    Anh em nói về tốc độ. Tôi chưa bao giờ thấy điều ǵ giống như thế. Anh em biết con gấu có thế chạy nhanh hơn ngựa, nai, hay bất cứ giống ǵ, giống như thế. Nó đi xuống đồi, ngay về hướng chúng tôi, giống như thế!

214    Và bấy giờ, trước khi tôi có thể kiếm viên đạn khác bỏ vào súng, nó ngă xuống chết, ồ, khoảng 30, hay 40 thước cách chỗ tôi, quay lại đầu này qua đầu kia; Lấy tim, phổi và hết thảy ra khỏi nó. Đó là một viên đạn Nosler, anh em nạp đạn biết. Nó thổi bay đi tới nó, và nó ngă gục.

215    Bud đang đứng đó, nh́n qua, miệng anh trắng bệch. Anh nói, “Anh Branham à, tôi không muốn mang nó.”

       Tôi nói, “Tôi cũng không.”

216    Anh ấy nói, “Chà! Tôi muốn nói với anh sau khi điều đó chấm dứt, anh bạn à. Nếu đó không phải là một trong những khải tượng, và tôi đă thấy xảy ra trước đây, tôi không bao giờ đi lên đây, đến gần con gấu đó với anh.”

217    Một trong những người chúng tôi cũng không nhúc nhích nó. Nó cân nặng khoảng 1000 cân, tôi đoán vậy, bằng con voi ma-mút to lớn. Chúng tôi không thể làm sạch nó, lấy da nó. Chúng tôi bắt đầu đi xuống. Chúng tôi nói... “Anh Branham?” Chúng tôi lấy những cái sừng. Anh ấy nói, “Nếu những cái sừng chính xác là 42 tấc Tây, tôi sẽ ngất xỉu.”

218    Tôi nói, “Tốt hơn là anh nên xỉu ngay bây giờ, v́ đó là điều hiện xảy ra.”

219    Anh ấy nói,”Tôi không bao giờ thấy một - một... Điều đó với tôi dường như là đang mơ.”

220    Khi chúng tôi đi xuống nơi đó, tôi nói với Eddie, “Bây giờ anh xem. Blaine sẽ bắt tay vào việc.”

221    Vậy th́, anh em hăy nhớ, có một bàn tay chung quanh cái sừng đó. Nên nhớ, Anh Fred à, tôi đă nói với anh nó sẽ xảy ra như thế nào không?

       Tôi nói, “Anh hăy xem điều đó,” với Eddie.

       Vậy là Bud nói, “Đợi đă.” Anh ấy kiếm con ngựa của ḿnh ở đằng kia.

222    Chúng tôi mang con gấu theo, và những con ngựa này cứ phá tung mọi thứ. Anh em biết chúng làm như thế nào khi chúng ngửi thấy một con gấu xám hay bất kỳ loại gấu nào. V́ thế tôi đi qua nơi đó, giữ, cố gắng giữ con ngựa, cái yên con ngựa đang cố bỏ chạy.

223    Anh ấy đi qua kiếm cái thước dây của ḿnh, và bước qua đó,nh́n tôi, giống như thế. Nói, “Đến đây, Blaine.” Tôi đấm Eddie. Đặt nó xuống... A-men! V́ thế đúng là 42 tấc Tây không sai một chút.

224    Những cái sừng co lại khoảng 2 tấc Tây khi nó khô. Con gấu xám đó đang nằm trong pḥng làm việc của tôi, và những cái sừng treo trên tường. Người nhồi bông thú đă sửa sang chúng, và nhồi bông chúng. Có một cái thước dây treo ở trên chúng, chính xác 42 Tấc Tây.

225    Vậy th́, Đức Chúa Trời sẽ bảo cho một điều ǵ đó giống như thế cho một chuyến đi săn để làm ǵ?

226    Khi tôi trở về, mẹ tôi bị đau. Tôi đi thăm bà. Bà nói, “Billy hả?” Đấy, Ngài đang khuyến khích tôi, làm cho tôi sẵn sàng cho điều ǵ đó.

       Tôi nói, “Mẹ ơi, Chúa luôn luôn chữa lành mẹ.”

       Bà nói, “Billy, mẹ sẽ về Nhà để gặp ba.”

       Tôi nói, “Ồ, mẹ ơi, đừng nói thế.”

       Bà nói, “Đúng, mẹ sẽ đi.” Tôi cầu nguyện cho bà.

       Anh Fred và tất cả những người làm chứng đang ngồi ở đây đều biết.

227    Sau đó, việc kế tiếp anh em biết là họ đưa bà vào bệnh viện. Bác sĩ thậm chí không biết là bệnh ǵ. Vậy là tôi đi ra cầu nguyện cho bà. Bà nói, Con ơi, mẹ sẽ đi.” Và lúc ấy, mẹ tôi hầu như là loại phụ nữ đầy sức mạnh.

228    Ngày nọ, 2 ngày sau đó, tôi bước vào. Bà đang đứng đó, ngước nh́n lên Trời. Bà nói, “Billy, mẹ thấy con.”

       Tôi nói, “Ủa, chắc chắn vậy, mẹ à. Con thấy mẹ ngay tại đây.”

229    Bà nói, “Ồ, con già quá, Bill à, tóc con bạc trắng và râu dài phất phơ. Con ôm trong tay thập tự giá, đưa ra cho mẹ.” Tôi đă có một ư tốt lúc ấy, chính là điều đó.

       Vậy th́, các anh em ở đây biết đó là sự thật.

230    Ngày hôm sau là Chúa nhật. Tôi đang giảng, Người ta gởi tới cho tôi lời, “Mẹ anh...” Tôi nói, “Tôi không tin rằng mẹ tôi chết. Đức Chúa Trời luôn bày tỏ cho tôi, người của tôi đang làm ǵ. Nhưng, mẹ tôi, tôi không bao giờ tỏ cho tôi thấy ǵ về điều đó.” Ở đây một Sứ điệp đến. Tôi ở ngay giữa Sứ điệp của tôi, giống như thế này. Người nào đó đi vào, nói, “Hăy đi, đi ngay đến với mẹ anh ngay bây giờ. Gọi điện thoại cho bà ấy. Bà ấy sắp chết vào phút này.”

231    Tôi nói, “Hỡi sự chết, cứ nắm giữ bà. Lời Đức Chúa Trời quan trọng hơn điều đó.”

232    Người này đang ngồi ngay tại đây, Anh Borders. Sau khi Buổi nhóm chấm dứt, tôi đi ra gặp mẹ tôi. Tôi đă gặp Anh Borders. Anh ấy nói, “Anh Branham à, anh không cao tới thước 1,8 nhưng tôi thấy một người cao hơn 3 thước đứng ở bục giảng sáng nay.”

       Tôi nói, “Anh Borders à, Đức Chúa Trời sẽ chăm sóc hết thảy cho mẹ tôi.”

233    Vài ngày sau đó,họ gọi tôi ra ngoài đến pḥng,mẹ tôi thật sự sắp chết. Con cái nhóm lại đứng chung quanh giường. Tôi nói, “Mẹ ơi, mẹ sẽ đi thật à?”

       Bà nói, “Đúng.” Rồi bà không thể nói nữa.

234    Tôi cứ nói với bà, “Chúa Jêsus có ư nghĩa ǵ với mẹ? Tôi c̣n nhớ làm phép báp-têm cho bà trong Danh Ngài cách đây đă lâu, trong nước. Tôi nói, “Hăy nói cho con biết Ngài có ư nghĩa ǵ với mẹ giờ này.”

       Bà đă nói, “C̣n hơn sự sống đối với mẹ.”

235    Tôi nói, “Mẹ ơi, nếu mẹ đi, con là con trai mẹ... Thầy giảng. Con muốn biết, từ người mẹ của chính con sẽ đi gặp Đức Chúa Trời. Con muốn giữ bàn tay mẹ ở đây, mẹ ơi.”

       Nói, “Con muốn giữ.” Tôi cứ nắm nó.

236    Bà không nói được. Giống như bà đang bị liệt. Tôi nói, “Mẹ không thể nói chuyện được nữa hả mẹ?” Bà không thể làm... Tôi nói, “Nghe này. Chúa Jêsus vẫn không thay đổi với mẹ chứ?” Bà có thể gật đầu.

237    Sau đó bà không thể gật được nữa. Tôi nói,”Mẹ ơi, Chúa Jêsus là mọi sự với mẹ giờ này chứ?” Ngài đang đến v́ mẹ, trong một phút nữa. Mọi sự với mẹ chứ?” Bà không thể cử động.

238    Tôi nói, “Mẹ ơi, mẹ chỉ có thể làm một điều, nháy mắt mẹ. Nếu Chúa Jêsus vẫn có ư nghĩa không hề thay đổi với mẹ như Ngài đă có, như ngày con làm phép báp-têm cho mẹ, hăy nháy mắt mẹ thật nhanh.” Bà nháy mắt, và nước mắt chảy xuống.

239    Một cơn Gió nhẹ đến, lướt vào trong pḥng. Mẹ đi về Nhà.

240    Tôi đến nhà, đi ra nhà tang lễ, chọn áo quần. Ồ, anh em biết nó như thế nào. Anh em phải làm giống như vậy. Những đứa trẻ khóc lóc, người này đến người khác. Tôi nói, “Mẹ là cột trụ (hitch-post). Chúng con sẽ không bao giờ giống như trước đây nữa.” Doc và gia đ́nh anh ấy ở trong góc này. Jesse và gia đ́nh cậu ấy ở góc kia. Chúng tôi vừa mới chôn Howard, mới đây. Tôi nói, “Chúng ta đều chết, các bạn à.” Tôi nói, “Chúng ta sẽ... Chúng ta sẽ không đến để gặp nhau. Mẹ đă là nơi ở lại của chúng ta.” Tôi nói, “Chúng ta sẽ không thấy nhau, không c̣n nhiều hơn lúc này.”

241    Tôi đi lên nhà, ban đêm, sau khi chúng tôi lấy áo quần mẹ ra. Tôi đi lên nhà.

242    Bà Domico, ở Chicago, người nào biết bà ấy không? Là một người bạn rất yêu dấu của Chiến dịch. Bà đă cho tôi quyển Kinh thánh. (Xin lỗi.) Nó là một trong những quyển Kinh thánh chữ đỏ có một cái dây kéo ở trên đó. Người nào đó, khi tôi giảng bài giảng ấy, Chiên Con và Bồ Câu, họ đă gởi đến tôi 2 con chim bồ câu, như một người nắm giữ. Anh em khác của tôi, Anh Norman, đă gởi đến tôi một chim bồ câu con. Và một con chiên, và Anh Borders cho tôi con chiên đó. Tôi lấy quyển Kinh thánh đó. Meda [vợ Anh Branham] đi vào trong một góc và khóc.

243    Hết thảy anh em [Hội] Thương Gia [Tin Lành] ở đây biết, khi tôi c̣n ở Jamaica, đă gặp mẹ vợ của tôi, đă nói với anh em ở bàn ăn ngoài Jamaica đó. Tôi nói, “Một người nào đó trong những người của tôi sắp chết, mà không có cái răng nào. Tôi thấy họ chết.” Ngay tại bàn ăn, Demos Shakarian và hết thảy họ đang ngồi ở đó. Vài giờ sau đó, mẹ vợ tôi hầu như qua đời, không có cái răng nào, hoàn toàn chính xác.

244    Tôi nói, “Tôi thấy một thanh niên khạc ra máu.” Tôi đă gọi, nói, “Đừng để Billy...”

245    Có người nào ở đây đă có mặt tại Buổi nhóm ở Jamaica vào lúc đó không? Không thể thấy. Đúng thế. Có 2 người.Vậy th́...

246    Tôi nói, “Phải... Billy, con đừng đi lên đó. Ba thấy một thanh niên bị đổ máu.” Và đó là em vợ của tôi. Cậu ấy đă chết, bị xuất huyết khi mẹ cậu ấy chết. Điều đó làm cho cậu ấy bị sốc.

247    Rồi đứng ở đây ngày hôm đó, tôi cầm lên quyển Kinh thánh này. Tôi nói, “Cha ôi con không biết. Có lẽ thật sự t́nh yêu của Cha, Cha không chỉ cho con thấy mẹ con chết. Nhưng con quá suy sụp, Chúa ôi. Xin Chúa ban cho con vài Lời an ủi từ Lời Ngài.” Tôi nói, “Xin cho con đọc điều ǵ đó an ùi, là sự an ủi đối với con.” Tôi cứ để Kinh thánh mở ra như thế. Nó ở đó đấy, những ḍng chữ màu đỏ, “Nó không chết, nhưng mà ngủ.” Và tôi đi vào pḥng. Chúng tôi đi ngủ.

248    Khoảng giờ sáng hôm sau thức dậy. Họ đă sửa soạn cho bà, gần trưa, v́ thế chúng tôi đi xuống để thấy bà. Meda đi ra lo bữa ăn sáng cho bầy nhỏ, và bé Joe khóc. Becky ở trong góc, vẫn c̣n khóc, “Con sẽ gặp lại bà nội không?”

249    Tôi nói, “Có, có. Con sẽ gặp lại bà. Bà chỉ đi qua, đi lên cầu thang.” Tôi nói, “Chúng ta sẽ gặp lại bà.” Mẹ tôi rất yêu những đứa trẻ, anh em biết đấy.

250    V́ thế, chúng cứ khóc, “Chúng con có thể gặp bà nội chiều nay không?”

251    Tôi nói, “Các con có thể thấy thân thể bà đă sống trong đó, nhưng bà đi đi lên ở với bà nội khác của các con, họ ở trên Trời.”

252    Và Joe, con trai nhỏ của tôi không thể hiểu được điều đó. Nó không hiểu được điều đó. Nó nói, “Thế bà có xuống trở lại tối nay không?”

253    Tôi nói, “Không, không. Ba không biết khi nào bà nội sẽ xuống lại. Khi Chúa Jêsus đến, bà sẽ trở lại.”

254    Tôi đang đứng đó. Và tôi quay lại, bước vào trong pḥng. Khi tôi... Đừng bảo tôi giải thích điều đó. Không có cách nào giải thích nó. Tôi thấy chính ḿnh đang đứng ngoài đó, giống như tôi nh́n khắp thính giả này. Tôi đang hướng dẫn hát. Tôi không bao giờ làm thế. Tôi thậm chí không biết hát chút nào. V́ thế, đó là một đám đông vô cùng to lớn.

255    Về phía này, thính pḥng giống như nó ở bên ngoài, ồ, tôi không biết anh chị em gọi nó là cái ǵ, hầu như ở dưới đồi, và hầu như giống một giảng đường. Phía sau rất xa, có những hàng người, họ phải đứng lên giống như thế này. Nhưng ngay ở giữa... Chỉ 3 hàng, giống như thế này. Ngay ở giữa th́ giống như những dăy rơm phơi khô, những đứa tẻ tàn tật đang nằm trong những hàng đó.

256    Tôi mặc bộ đồ màu sậm, và tôi hát, “Mang chúng vào, mang chúng vào, mang những trẻ thơ này đến với Jêsus.” Chúng tôi hát bài đó ở Nhà thờ, trong giờ dâng con trẻ. Và ở đó giống như một cái hộp ở đây... và bục giảng gần với cái đó. Nhưng tôi ở dưới, hướng dẫn hát. Đột nhiên, tôi đứng đó, nh́n vào chính ḿnh, rồi... Ồ, đừng cố nghĩ ra điều đó, v́ anh em không thể. Lúc đó khi tôi c̣n ở đây, th́ nó ở đây. Tôi không biết. 2 người đi với nhau. Và nó...

       Đó là một việc tốt khi anh em đi 2 người với nhau.

257    Tôi có một máy ảnh ở trên đó. Đi xuống, tôi không biết làm thế nào để chụp h́nh. Tôi nh́n qua cái này, và, chao ôi, tôi có thể thấy 5 hay 6 đối tượng khác nhau. V́ thế tôi bắt đầu điều chỉnh nó. Billy bảo tôi, nói, “Hăy tập trung vào tiêu điểm, và hết thảy trở thành một.”

258    Thật là ư kiến hay để làm thế. Anh em thấy các thứ khác hẳn khi anh em tập trung vào tiêu điểm. Và dùng Lời Đức Chúa Trời cho tiêu điểm của Ngài, và anh em sẽ -- anh em sẽ thấy những ǵ tôi đang nói về. Nhưng trước tiên hăy tập trung vào tiêu điểm.

259    V́ thế đang đứng đó nh́n, và tôi đi vào khải tượng ấy. Trong lúc ở đó, tôi để ư thấy một người nổi tiếng trở lại phía sau của nơi ấy. Và họ... Tôi nói, “Ồ, họ đang đến chỗ ngồi của người nổi tiếng.” Vậy họ bước lên lối này. Tôi nghĩ: “Ồ, ḿnh sẽ hát một lần nữa trong khi quí bà ấy đến.” Bà ấy mặc đồ kiểu xưa.

260    Bây giờ, một số quí bà sẽ nhớ điều này, khi họ mặc loại váy nào đó, giống như ở khắp nơi này, và nó phủ xuống đôi giày ống. Họ đă có hầu như... Điều mà anh em gọi những thứ đó, giống như phụ nữ này mặc ở đây là ǵ hiện giờ? Áo bờ-lu đó. Áo choàng khi làm việc, một trong những thứ đó giống như thế, và ống tay áo thật dài. Anh chị em c̣n nhớ không? Đi lên chung quanh cổ ở đây, với loại nút nhỏ. Rồi, một cái mũ thật to lật lên phía này. Các bà thời đó, họ để tóc dài. V́ thế họ kẹp nó xuống như thế này, và đặt cái mũ lên trên, và kẹp nó, để giữ nó, v́ họ phải cưỡi trên yên ngựa.

261    V́ thế người phụ nữ này đi lên, và mọi người tôn trọng bà này. Tôi nghĩ: “Ồ, bà ấy sẽ đi đến chỗ ngồi dành cho những người nổi tiếng.”

262    Thế nên, tôi nói, “Một lần nữa, tất cả phía bên này, ‘Mang chúng vào.’ Bây giờ ở trên đây, ‘Mang chúng vào.’ Sau đó ở giữa, rồi hết thảy cùng nhau hát giờ này, Mang trẻ thơ đến với Jêsus.”

263    Ngay khi tôi nói thế, quí bà này đă bước vào chỗ ngồi đó rồi. Tôi có thể thấy, khi bà vào chỗ ngồi, mọi người đứng lên. Họ hầu như đang làm giống như thế này, nhận biết bà, và bà đang nhận biết họ.

264    Tôi nghĩ: “Ồ, đă đến lúc cho ḿnh giảng. Ḿnh sẽ cầu nguyện cho người đau.” Tôi đứng lên ở đây trên - trên bục này, và chỗ gần như người anh em đang ngồi ở đây. Và tôi quay lại, giống như thế này.

265    Tôi nghĩ: “Nào, bây giờ, quí bà đó sẽ cúi chào ḿnh, vậy ḿnh sẽ nhận ra bà.” V́ thế khi tôi quay lại, bà đă cúi đầu xuống rồi, giống như thế này. Tôi cúi đầu như thế này. Khi tôi ngẩng đầu lên, cùng một lúc với bà, và đó là mẹ tôi, trẻ, đẹp.

       Tôi nh́n bà. Tôi nói, “Mẹ à?”

       Bà nói, “Billy.”

266    Ngay lúc ấy, ánh sáng bắt đầu chớp khắp nơi trong ṭa nhà, sấm sét vang rền, và một sự rúng động đến. Rồi một Tiếng nói, “Đừng sợ về mẹ ngươi.” Nói, “Bà ấy giống như lúc bà đă sống vào năn 1906.”

267    Tôi nói, “Cái ǵ, 1906 à?”

       Meda nói, “Anh làm sao vậy?”

       Tôi nói, “Em à, 1906, 1906 là cái ǵ?”

       Nàng hỏi, “Tại sao?”

       Tôi nói, “Một khải tượng, anh thấy mẹ đang đứng ngay tại đây.”

       Nàng nói, “Anh thấy ǵ?”

       Tôi nói, “Anh thấy mẹ.”

       Nàng nói, “Chắc chắn chứ, Bill?”

267    Tôi đáp, “Chắc chắn. Bà đang đứng ngay tại đây, và bà rất đẹp. Ngài Phán...” Tôi nói, “Bà đúng là một phụ nữ trẻ trung.”

268    V́ thế tôi đi và kiếm băng ghi âm gia đ́nh cũ. Anh em biết bà ấy là ǵ vào năm 1906 không? Cô dâu của ba tôi. Đó là năm bà kết hôn. Bây giờ bà là phần của Cô Dâu khác, Nàng Dâu của Chúa Jêsus.

269    Người nào đó từ nơi nào đó gởi cho tôi đồng hào. Tôi để nó trong túi áo của tôi ở đây, 1906.

270    “Và Ngài, Đức Thánh Linh khi Ngài đến, Ngài sẽ bày tỏ mọi sự này cho các ngươi điều Ta đă nói, và sẽ tỏ cho các ngươi thấy những việc sẽ đến.”

271    Vậy th́, nó là điều ǵ? Chuyến đi săn chỉ gây dựng tôi, anh em biết đấy. Một trong những chuyến đi tốt nhất tôi từng có, biết rằng, sự va chạm lớn này. Đó là t́nh yêu thương. Và thưa anh em, chị em, nếu hết thảy những khải tượng này đă đúng hoàn toàn, về những ǵ Đức Thánh Linh đă tỏ cho thấy, th́ đó phải là Đức Thánh Linh. Kinh thánh nói rằng, “Nếu nó ứng nghiệm, th́ đó là Ngài.”

272    Thế th́ chúng ta có hi vọng tuyệt vời! Ngày nào đó chúng ta sẽ rời khỏi nơi này. Chúng ta sẽ trở lại thành một thanh niên và thiếu nữ, không bao giờ chết nữa. Tôi thà biết điều đó c̣n hơn là biết rằng tôi sẽ là Tổng thống của thế giới và sống trong 1 triệu năm. Tôi thà biết rằng tôi đă ở trong tay Chúa c̣n hơn.

273    Tối nay tôi vui mừng biết rằng Chúa Jêsus không hề thay đổi lời tuyên bố đó, Ngài hiện có ở đây, sau 2000 năm. Điều đó không thể hư mất. Điều đó là Vĩnh cửu. Ngài là Chúa Jêsus không hề thay đổi tối nay giống như lúc Ngài đă tuyên bố câu này. Ngài sẽ vẫn quả quyết Lời đó, nếu chúng ta tin. Anh chị em tin điều đó không?

       [Hội chúng nói, “A-men!” - Bt]

274    “Khi Ngài đến, Đức Thánh Linh đă đến, Ngài không nói tự ḿnh, nhưng nói mọi điều thuộc về Ta,” đó là Lời, “và sẽ bà tỏ chúng cho các ngươi. Và rồi Ngài cũng sẽ tỏ bày cho các ngươi những sự sẽ đến.”

275    Trong sách Hê-bơ-rơ, chương 4, Kinh thánh nói, “Lời của Đức Chúa Trời sắc hơn gươm...”

276    Vậy th́, AI là Lời, Chúa Jêsus. “Ban đầu có Lời, Lời ở cùng Đức Chúa Trời, và Lời là Đức Chúa Trời. Ban đầu Ngài ở cùng Đức Chúa Trời. Và Lời đă trở nên xác thịt ở giữa chúng ta.”

277V́ Lời của Đức Chúa Trời là Lời sống và linh nghiệm, sắc hơn gươm 2 lưỡi, thấu vào đến đỗi chia hồn, linh, cốt, tủy, Đấng xem xét tư tưởng và ư định trong ḷng.”

278    Đó là Đức Chúa Trời của chúng ta. Chúng ta không hư mất, thưa các bạn. Chúng ta vẫn sống trong ân điển của Đức Chúa Trời. Tôi - tôi cảm thấy, để nói chuyện về bất cứ điều ǵ, và nói về th́ quá khứ... Như tôi đă nói tối hôm qua, như những môn đồ kia đang cố gắng sống dựa trên những Buổi nhóm họ đă có trước đây, mong đợi v́ điều khác, nhưng quên chính Đấng Tạo Hóa của gió và sóng biển đang nằm trong thuyền.

279    Đức Chúa Trời đă ở trên những ngọn núi kia, đặt để con gấu đầu bạc đó, theo như Lời Ngài, nằm trên nền ở đó làm chứng cớ.

280    Bây giờ, nếu anh em muốn viết cho người đó, cứ viết Bud Southwick, S-o-u-t-h-w-i-c-k, Bud Southwick, Fort Saint John, tỉnh Brotish Columbia, và cứ để anh ấy trả lời thư cho anh em. Nhân đây, nếu anh em đi săn, đó là một người tốt để đi cùng.

291    Bây giờ để ư. Ngài đă bảo điều đó giữa những đi săn đi lên đi xuống con đường đó, cho đến khi tôi định tổ chức Buổi nhóm thật sự lần tới tôi đi lên đó, chỉ với sự dẫn dắt, đúng thế, để thấy những việc đó xảy ra đúng như cách được nói. Đó là năm ngoái.

282    Điều này xảy ra năm này, ngay bây giờ. Chúa Jêsus giống như vậy đă hứa điều đó, “Ta sẽ không bao giờ ĺa ngươi hay bỏ ngươi. Ta sẽ ở cùng các ngươi luôn, cho đến tận thế.” Anh chị em tin điều đó chăng? [Hội chúng nói, “A-men!” - Bt]

283    Với những chứng cớ như vậy,với lẽ thật như vậy đă chứng thực, Lẽ thật vững chăi, làm sao chúng ta có thể cảm thấy cách nào khác hơn như chúng ta chỉ thích đi qua mái nhà, được cất lên? Chúng ta có những việc thuộc về thế gian làm mờ mắt chúng ta, trong cách như vậy sao? Ở đó, chúng ta thấy những việc quan trọng như vậy là chắc chắn, được chứng minh là sự thật.

284    Bây giờ, mỗi người đau ở đây, nếu anh em chỉ tin Đấng ấy đă hứa Lời đó, và bởi cùng Đấng ấy đă lấy đi bệnh động kinh ra khỏi chàng trai đó, người nam đó, th́ Ngài là Đức Chúa Trời không hề thay đổi ở ngay tại đây giờ này. Nếu tôi có thể lấy bệnh đó ra khỏi anh em, tôi sẽ làm điều đó, nhưng tôi không thể làm. Ngài đă mua chuộc điều đó cho anh chị em rồi, và điều duy nhất anh chị em phải làm là tin nó.

285    Điều ǵ xảy ra nếu chàng trai ấy ngất xỉu, và người đàn bà đó nói, “Này, áo sơ-mi để làm ǵ?” Điều đó có lẽ sẽ không có tác dụng trên người nào khác. Hiểu không? Cứ để trên người đó, v́ nó được ban đến cho người ấy. Na-a-man đă dầm ḿnh trong ḍng sông 7 lần; Nhưng người khác dầm ḿnh, có lẽ sẽ không hết bịnh phung. Hiểu không? Nhưng để ư. Đó là những ǵ Ngài Phán là Lẽ thật, một Lẽ thật được chứng thực hoàn toàn.

286    Bây giờ, đă trễ để gọi một hàng người xin cầu nguyện chữa lành. Chúng ta hăy ngừng lại một phút.

287    Chúng ta hăy suy nghĩ. Đó có phải là điều Đức Chúa Trời đă Phán không? Đó sẽ là Đức Thánh Linh chân thật sẽ làm điều đó. Đúng thế không? [Hội chúng nói, “A-men!” - Bt] Ồ, ai sẽ nói rằng Ngài không phải là Đức Thánh Linh? Ngài là Đức Thánh Linh. “Ta với Cha là Một.” Đức Thánh Linh là Cha Ngài. “Nàng sẽ sanh Một Trai. Con Thánh mà nàng chịu thai đó là thuộc về Đức Thánh Linh.” V́ thế, Đức Thánh Linh và Đức Chúa Trời là cùng một Thần, và Thần đó ở trong Ngài.

288    Hăy xem những ǵ Ngài đă làm khi một người đàn bà chạm vào vạt áo Ngài, khi Ngài nh́n bao quát thính giả, và nhận biết ư tưởng của họ. Lời chẳng nói rằng, “V́ Lời của Đức Chúa Trời là Lời sống và linh nghiệm, sắc hơn gươm 2 lưỡi, thấu vào đến đỗi chia hồn, linh, cốt, tủy, Đấng xem xét tư tưởng và ư định trong ḷng” đó sao? [Hội chúng nói, “A-men!” - Bt] Ngài chẳng Hứa trong Phúc âm Giăng 12, Phúc âm Giăng 14:12, rằng, “Kẻ nào tin Ta, th́ cũng làm các việc Ta làm” đó ư? [“A-men!”] Hay là, nó đă bao giờ sai không, ngoài những ǵ là Lẽ thật?

289    Thế th́, Đức Chúa Trời ở đây. Ngài ở đây để làm cho mọi người được khỏe mạnh. Ngài ở đây để cứu mọi linh hồn hư mất. Và trước tôi kêu gọi trở lại với Chúa, như tôi cảm thấy được dẫn dắt để làm, sự kêu gọi này, chúng ta hăy kêu cầu Ngài. Bao nhiêu anh chị em sẽ trả giá, hay là nói, “Nếu tôi có thể...” Có lẽ những người khách lạ ở đây nói, “Tôi không bao giờ thấy một trong những Buổi nhóm đó. Tôi đă nghe nhiều người nói về những việc này, nhưng tôi - tôi thật sự chưa bao giờ thấy điều đó. Nó sẽ khích lệ ḷng tôi nếu tôi có thể thấy chính sự Hiện diện của Đấng Christ đến giữa dân sự và làm công việc giống như Ngài đă làm.” Điều đó sẽ khích lệ anh chị em chứ? [Hội chúng nói, “A-men!” - Bt]

290    Chúng ta hăy cúi đầu, cầu nguyện một lời. Mọi người nhắm mắt. Bây giờ hăy để Đức Thánh Linh đi theo với Lời.

291    Bây giờ, Cha ôi, theo như sự hiểu biết của con, Ngài biết ḷng con thế nào. Biết rằng những người này đang chịu đựng dưới sức nóng này, và họ tụ tập đông đúc, kiên nhẫn đứng nghe. Con có thể h́nh dung đó cũng giống như đám đông trên bờ sông ngày ấy và đă nghe Ngài Phán từ con thuyền. Và rồi bảo họ, “Hăy chèo ra ngoài sâu, thả lưới mà đánh cá.” Không thấy có một số cá ở đó không. Chúng đă ở đó.

292    Và những lời đáng chú ư của Sứ đồ đó nói, “Lạy Chúa, chúng tôi đă làm suốt đêm không bắt được chi hết; Dầu vậy, tôi cũng theo lời thầy mà thả lưới.” Khi họ vâng theo Lời Ngài, họ được nhiều cá lắm, đến nỗi lưới phải đứt ra.

293    Kính lạy Chúa Jêsus, không nghi ngờ ǵ nhiều phụ nữ bỏ lại việc giặt giũ sáng hôm đó, nhiều người nam bỏ ruộng đồng, mùa màng, những người đánh cá bỏ lưới, để nghe Lời Đức Chúa Trời. Lạy Chúa Jêsus, nếu Ngài ở đây trong thể chất tối nay, không nghi ngờ ǵ nhiều người sẽ nhóm lại. Nhưng những người này tin rằng Ngài không chết, rằng Ngài đă sống lại từ kẻ chết, và Ngài bày tỏ Lời Ngài và giữ Lời Ngài, Lời mà con đă đọc cho họ từ Lời Kinh thánh tối nay.

294    Như Chúa của chúng con có lần đă được trao cho một quyển Kinh thánh, hay Kinh thánh được trong những tấm da, và Ngài đọc, rồi ngồi xuống. Ngài, “Hôm nay Lời Kinh thánh này được ứng nghiệm.”

295    Xin để cho điều đó xảy ra lần nữa, Chúa ôi. Xin cho nó xảy ra lần nữa, rằng chính ngày này, chính đêm nay, Lời Kinh thánh mà con đă đọc có thể được ứng nghiệm. Tất cả chúng con được dạy dỗ, suốt cả tuần, rằng điều đó đă được xảy ra để chứng minh thời đại Cuối cùng. Và rồi ḷng chúng con sẽ đi ra, vui mừng.

296    Có lẽ có nhiều người ở đây, mà Ngài đang Phán với họ, Chúa ơi. Xin giúp chúng con tối nay biết Lời Ngài, Lời Ngài đă chứng thực là Lẽ thật. Xin nhậm lời, Cha ôi.

297    Trong khi chúng ta cúi đầu, để xem xét, làm lắng dịu chính ḿnh từ sự giảng dạy. Bao nhiêu anh chị em ở đây, chưa thật sự là Cơ-đốc nhân được sanh lại? Bây giờ, anh em có thể đi Nhà thờ, nhưng điều đó không phải là những ǵ tôi yêu cầu. Anh chị em... Nếu anh chị em không phải là một Cơ-đốc nhân được sanh lại,nhưng anh chị em tin có một Chúa Jêsus đang sống động, một Đức Thánh Linh thật, và anh chị em muốn được Ngài nhớ đến giờ này. Mời anh chị em hăy cúi đầu, nhắm mắt giờ này, giơ tay lên với Ngài, “Lạy Chúa, xin nhớ đến con.” Xin Chúa ban phước cho chị. Xin Chúa ban phước cho anh, cho anh, cho anh. Xin Chúa ban phước cho ông. Rất tốt. C̣n ai nữa không?

298    Bây giờ, chúng ta không phải là số nhiều. Nhưng anh chị em biết, thế gian t́m kiếm những việc to lớn và số đông phải không? Như chúng ta đă nói tối hôm qua, đó là một Tiếng rất êm dịu lôi kéo nhà Tiên tri đến với gương mặt che mạng.

299    Vậy th́, anh chị em có đức tin nơi Đức Chúa Trời. Thưa anh em, chị em của tôi, hăy có đức tin nơi Đức Chúa Trời. Nếu như Chúa nhân từ, cực đại của chúng ta sẽ đến nơi Lời này đặt ở đây, Chính Lời của Ngài được mở ra, và sẽ chứng minh cho anh chị em rằng Đức Thánh Linh này mà tôi nói về, là Lẽ thật. Anh chị em có thể đă nhiều lần bị lẫn lộn với nhiều thứ, nhưng điều đó chỉ đi đến chỗ cho thấy rằng có một Đấng Thật ở nơi nào đó. Và khi Ngài làm điều đó, tôi muốn anh chị em giơ tay lên, đến, cho tôi thấy, chỉ một lát.

       Bây giờ anh chị em có thể giơ tay lên.

300    Kính lạy Chúa Jêsus, xin giao Buổi nhóm này trong tay Chúa giờ này. Con là đầy tớ Ngài. Và tất cả sự giảng dạy... Chỉ một Lời từ Ngài sẽ có ư nghĩa nhiều hơn tất cả những lời chúng con có thể nói suốt cả đời; Chỉ một Lời thôi. Xin nhậm lời, Cha ôi, khi con giao phó những lời làm chứng này. Chúa biết chúng có thật, Cha ôi. Ngài là Đấng ban cho họ. Và không bao giờ sai trật. Xin nhậm lời, trong Danh Đức Chúa Jêsus. A-men! Bây giờ, bao nhiêu người ở đây không có thẻ cầu nguyện, mà bị đau? Hăy giơ tay lên, mọi nơi trong Nhà thờ, không có thẻ cầu nguyện và đau ốm. Được rồi. Những ai có thẻ cầu nguyện hăy giơ tay lên. Gần như giống nhau. Hết thảy đều ḥa lẫn với nhau.

302    Trước hăy nh́n khắp thính giả, hăy chân thật trước Chúa, trước anh em. Tôi biết rằng tôi nh́n lướt qua ở đây, một số bạn bè của tôi đang ngồi trong góc ở đây. Anh Noel... và Chị Jones, Anh Outlaw, con trai tôi, người anh em này đây, và Anh Moore. Tôi không biết người anh em này, nhưng tôi đă thấy anh trong các Buổi nhóm, vài lần vừa rồi. Tôi không thể h́nh dung ra tên của anh ấy, nhưng tôi biết mặt anh ấy. Chị Williams, ngay ở đây. Chị Sharritt đang ngồi trong góc. Ở phía sau là một số người từ Đền tạm Jeffersonville đến.

303    Đang ngồi ở ngay đây là một trong những người bạn cũ yêu quí của tôi, 90 tuổi, từ Ohio đến, lái xe đi suốt đường. Tôi đă đi đến châu Phi và anh cùng người vợ đáng yêu hỏi họ có thể đi tới Châu Phi với tôi không. Nói, “Chúng tôi sẽ trả...” 90 tuổi, một anh em người Đức, chưa bao giờ biết Chúa. Khi tôi giảng đêm nọ, anh ấy bước vào với bộ đồ đẹp của ḿnh, chịu phép báp-têm. 90 tuổi! Bên ngoài...

304    Ồ, tôi tin đây là Anh Waldrop và Chị Waldrop đang ngồi ở đó. Nào, xa khoảng... và Anh Borders.

305    Bây giờ, tôi gọi tên của họ. Nếu anh em nào biết tôi thích điều đó, đừng cầu nguyện. Hiểu không? Hăy cầu nguyện cho tôi. “Chúa Jêsus ôi, con đă nghe nói về người này. Con nghe nói Mục sư này đọc ra Lời này từ Kinh thánh tối nay. Con nghe những lời làm chứng đó, và con nghe về những lần điều này xảy ra. Chúng con đến gần sự chấm dứt phải không? Chúa ôi? Chúng con đến gần điều đó không?”

307    Hăy nhớ, khi dấu hiệu đó được thực hiện ở Sô-đôm, thành phố bị thiêu hủy, Chúa Jêsus đă nhắc đến nó, Ngài Phán, “Việc đă xảy đến trong thời Sô-đôm, th́ cũng sẽ xảy đến trong ngày Con người đến.” Đó là dấu hiệu cuối cùng mà họ nhận được trước khi thành phố bị hủy diệt. Chúa Jêsus Phán rằng điều đó sẽ tái diễn trong ngày con người đến.

308    Vậy th́, anh em biết điều đó đúng, Đức Chúa Trời ở trong xác thịt! Bao nhiêu anh chị em tin rằng Đức Chúa Trời đă nói chuyện với Áp-ra-ham [Hội chúng nói, “A-men!” - Bt] Đúng thế. Ồ, Kinh thánh nói, “Ê-lô-him,” vậy th́, đó là Đấng Tạo Hóa vĩ đại của Trời đất, Đấng đầy đủ mọi sự. Ngài đă có.

309    Ngài đang bày tỏ điều ǵ? Ngài đă ở trong thân thể một con người, đứng đó và ăn thịt ḅ con, uống sữa ḅ, và rồi có thể biến mất. “Ta sẽ thăm viếng ngươi theo kỳ hạn mà Ta đă Hứa với ngươi.” Hiểu không? Gọi ông bằng tên ông. Và lưng Ngài quay lại, Phán, “Sa-ra ở đâu?”

       Thưa rằng, “Nàng ở trong trại đằng sau Ngài.”

       Phán, “Ta sẽ thăm viếng ngươi theo kỳ đă định.”

310    Sa-ra nói... [Anh Branham làm một điệu bộ. - Bt] ... phía sau lều.

311    Ngài Phán, “Cớ sao Sa-ra cười?” Hăy nhớ, Kinh thánh nói nàng ở trong trại phía sau Ngài. Phán, “Cớ sao Sa-ra cười?”

       Sa-ra đáp, “Tôi có cười đâu.”

       Ngài Phán, “Thật ngươi có cười đó.” Hiểu không? Đúng thế.

312    Một Người đang đứng đó, Đức Chúa Trời tượng trưng Ngài trong xác thịt con người. Chúa Jêsus Phán sẽ xảy ra giống như vậy trong ngày Con Người đến: Đức Chúa Trời ở trong Hội thánh Ngài, anh em, tôi, tượng trưng chính Ngài. Vậy th́, có một người đàn bà tầm thường...

313    Khi Đức Chúa Trời đă ở trong Đấng Christ,Ngài có Thần Linh đầy đủ. Ngài là Đức Chúa Trời. Tôi chỉ là một trong các tôi tớ Ngài. Chúng ta có Thần linh bằng sự giới hạn. Ngài có Thần Linh không có giới hạn.” Trong Ngài có đầy đủ bổn tánh của Đức Chúa Trời.” Trong tôi chỉ là một ân tứ nhỏ bé, và trong anh chị em là ân tứ của Ngài. Nhưng cho dù nó nhỏ bé bao nhiêu đi nữa, nó cũng là Thánh Linh đó.

314    Vậy nếu đó là Thánh Linh của Đức Chúa Trời, Nó sẽ làm các công việc của Đức Chúa Trời. Bây giờ, anh em cầu nguyện và nói,”Lạy Chúa Jêsus, một người đàn bà nhỏ bé đă có lần chạm gấu áo Ngài.” Và chúng ta nói...

315    Ở trên đây trong Tân ước, người nói trong Hê-bơ-rơ, “Ngài là Thầy Tế lễ Thượng phẩm ngay bây giờ, có thể cảm thương sự yếu đuối của chúng ta.” Bao nhiêu anh chị em biết đó là Kinh thánh.” Hăy nói, “A-men!” [Hội chúng nói, “A-men!” - Bt] Chắc chắn. Ồ, đó phải là thật.

316    Thế th́, nếu Ngài hôm qua, ngày nay, và cho đến đời đời không hề thay đổi, Ngài sẽ trả lời anh chị em như thế nào? Giống như Ngài đă làm ngày hôm qua, nếu Ngài không hề thay đổi ngày hôm nay.

317    Vậy th́, anh em cầu nguyện và nói, “Lạy Chúa Jêsus, xin cho con chạm vạt áo Ngài. Và rồi, Ngài ban cho Anh Branham một ân tứ nhỏ, để khích lệ chúng con. Anh ấy không biết con. Con đang ngồi phía sau đây,” và ở đằng kia, ở dưới đây, và bất cứ nơi nào... Tôi... “Anh ấy không biết con, nhưng Ngài biết con. Xin cho con thấy Thánh Linh vĩ đại của Ngài, Chúa ơi. Không như con phải làm điều đó, nhưng chỉ để giúp khuyến khích con và những người c̣n lại, bởi v́ chúng con đă đọc Lời. Xin cho chúng con chạm vạt áo Ngài, rồi Ngài Phán trở lại. Xin cho con được sử dụng đêm nay, Chúa ôi, v́ mục đích đó.Nó sẽ tỏ cho toàn bộ thính giả thấy rằng Ngài vẫn sống động.” Điều đó tuyệt vời nếu Ngài làm thế không?

318    Bây giờ, anh em cứ cầu nguyện, một cách yên lặng. Nói, “Lạy Chúa, xin cho con chạm đến gấu áo Ngài.” Tôi sẽ đầu phục với Thánh Linh, và rồi có thể Đức Thánh Linh làm phần c̣n lại. Bởi v́, bây giờ, tôi đă nói chuyện, làm chứng, nhưng tôi không thể làm nhiều hơn giờ này. Con ở cuối con đường của ḿnh.”

319    Tôi chỉ nh́n xem thính giả, để thấy tôi... tôi phải thấy điều đó. Anh em hiểu điều đó.

320    Phía sau bên trái tôi, ở giữa những lối đi phía sau của Nhà thờ, là một người đàn bà đang cầu nguyện. Bà ấy sắp chết, nếu Đức Chúa Trời không giúp bà.   Bà ấy bị ung thư, và bệnh ung thư vú. Ồ, xin cho bà được qua khỏi.

       Xin giúp con, Chúa ôi.

       Chị ơi, nếu chị tin. Ôi chao! Chị ấy đang bỏ lỡ điều đó.

       Lạy Chúa Jêsus, xin giúp chúng con.

321    Mary May. Chị ở đó đấy. Chúng ta là người lạ với nhau phải không? Tôi không biết chị. Chị không biết tôi. Những t́nh trạng đó và mọi sự được nói là đúng chứ? Thế th́ hăy tin. Bệnh đó sẽ hết. A-men!

322    Bây giờ, từ sự tối tăm đă ở trên chị ấy, bây giờ đă có ánh sáng. Giống như chàng trai đó, bệnh động kinh ra khỏi người đó. Đức Chúa Trời không hề thay đổi, Đấng ở trên những khu rừng phía Bắc ấy, là Đức Chúa Trời không hề thay đổi ở đây. Cứ tin. A-men! “Nếu các ngươi có thể tin.”

323    Một người đàn bà ở đây đang ngồi phía trước tôi. Chị ấy có điều ǵ không ổn ở trong. Đó là một đĩa đệm ở lưng chị bị lệch. Chị không phải là người ở đây. Chị từ Montana đến. Tên chị là Cô Stubbs. Hăy đứng lên, nhận lănh sự chữa lành trong Danh Đức Chúa Jêsus Christ.

       Chị không phải vội vă. Hăy thư giăn.

324    Anh chàng to lớn này đang ngồi ở đây, đang nh́n tôi, đang làm giống như thế. Hăy tin. Anh sẽ khỏe mạnh. Bị bệnh thần kinh. Nếu anh tin, Đức Chúa Trời sẽ chữa lành anh.

325    Người phụ nữ có bệnh đàn bà. Hăy tin điều đó, chị có thể được khỏe mạnh. Hăy trở về nhà, và có đức tin nơi Đức Chúa Trời. Tại sao tôi nói đi về nhà? Chị có thể phải trở lại New Mexico, đến nơi đó, Ông và Bà Watkins. Này, ông bà biết tôi không biết ông bà. A-men!

326    Qúi bà ngồi ngay phía sau ông bà, bị u loét trên chân, Cô Brown. Cô tin rằng Đức Chúa Trời sẽ chữa lành cô không? Cô trông rất quan tâm. Vậy th́, cô biết tôi chưa hề biết cô trong đời. Trên chân trái. Bây giờ, cô tin hết ḷng, cô sẽ được khỏe mạnh.

327    Qúi cô đang cố gắng di chuyển, và cô bị viêm khớp. Nó đang buộc bà lại thật tệ. Bà Fairhead, bà tin hết ḷng, bà sẽ được khỏe mạnh. Nào, bà biết tôi chưa hề gặp bà. Ồ... [Chị ấy nói, “...được chữa lành trước đây. Tôi đă được chữa lành trước đây, và tôi biết Chúa sẽ chữa lành tôi.” - Bt] A-men! Đúng thế.

328    Anh chị em tin hết ḷng giờ này chứ? [Hội chúng nói, “A-men!” - Bt] Bây giờ, Ngài sẽ làm điều ǵ? “Ngài sẽ lấy đi những điều mà tôi đă nói với anh chị em, và sẽ tỏ cho anh chị em biết. Thế th́ Ngài sẽ tỏ cho anh chị em những việc sẽ đến.” Anh chị em hiểu điều tôi muốn nói không? [“A-men!”] Anh chị em tin điều đó không? [“A-men!”]

       Bây giờ chúng ta hăy cúi đầu lần nữa.

329    Anh em biết rằng nếu anh em đi qua đời sống này tối nay, anh em sẽ... sẽ không... anh em sẽ chết, anh chị em không được sanh lại. “Nếu một người không được sanh lại, th́ không thể thấy Nước Đức Chúa Trời.” Vậy tại sao anh chị em không đến ngay tại đây? Hăy đứng ở đây và để cho chúng tôi cầu nguyện cho anh chị em, chỉ một lát? Mời anh chị em đến ngay giờ này trong sự Hiện diện của Thần linh này.

330    Anh em sẽ không bao giờ thấy bất cứ điều ǵ lớn hơn cho tới khi anh chị em thấy sự Đến của Chúa. Vậy, hăy nhớ. Chắc chắn tôi biết ḿnh đang nói về điều ǵ, hay là Ngài sẽ không ban cho chức vụ này. Đừng để nó đi qua khỏi anh chị em giờ này. Anh chị em thành thật chứ?

331    Mời anh chị em đến. Nếu không, th́ điều đó nằm giữa anh chị em và Đức Chúa Trời. Tôi là người vô tội. Tôi được sạch về mọi huyết, bởi v́ tôi đă bảo cho anh chị em biết Lẽ thật. Tôi đă giảng cho anh chị em Lời. Tôi đă bảo cho anh chị em Ngài là ai. Và Ngài, khi Ngài đến,Ngài chứng minh những ǵ Ngài đă có lúc ấy; Và Ngài để cho tôi chứng minh những ǵ Ngài có bây giờ. Ngài không hề thay đổi như Ngài đă có lúc ấy. Anh chị em tin điều đó không? [Hội chúng nói, “A-men!” - Bt]

332    Thế th́, bao nhiêu anh chị em đau ốm ở đây, người khác ở đây bị đau? Hăy giơ tay lên.

333    Bây giờ hăy đặt tay trên nhau, và chúng ta hăy cầu nguyện bằng đức tin cho anh chị em.

334    Giờ này tôi muốn hỏi anh chị em đôi điều. Nếu Đức Chúa Trời có thể đến và làm phép lạ đó. Một phép lạ là điều mà không thể giải thích được. Vậy th́, nếu anh chị em muốn chất vấn bất cứ người nào trong những người ở đây, hăy đi hỏi họ bất cứ lúc nào ở bất cứ đâu. Hiểu không? Chỉ nhớ, đó là Đức Chúa Trời. Điều này ở đây chỉ là những sự hiện thấy không thường xuyên. Ai, người nào, đang làm điều đó? Chính là anh chị em, chính anh chị em. Anh chị em là người đang làm điều đó.

335    Anh em biết đấy, khi người đàn bà đó chạm vào gấu áo Ngài, Ngài Phán, “Quyền phép từ Ta mà ra.” Nhưng khi Cha tỏ cho Ngài thấy La-xa-rơ, và Ngài bỏ đi rồi trở lại, và làm La-xa-rơ sống lại từ kẻ chết, Ngài không hề nói, “quyền phép.” Đó là Đức Chúa Trời đang sử dụng sự ban cho của chính Ngài, người khác là người đàn bà đang dùng sự ban cho của Đức Chúa Trời.

336    Tôi không phải là sự ban cho của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Jêsus Christ là Sự Ban Cho của Đức Chúa Trời. Đó chính là sự ban cho mà Ngài ban cho tôi, khi tôi được sanh ra cách ấy, với tiềm thức và ư thức (ư thức trước tiên) cùng với nhau. Anh em không đi ngủ; Anh em chỉ thấy nó. Đức Thánh Linh đến trên tiềm thức giống như nó làm trên ư thức. Nếu nó đến trên tiềm thức của anh em, anh em phải có một giấc mơ thuộc linh. Nó đến trên tiềm thức của tôi, tôi không nằm mơ. Tôi chỉ nh́n ở đó và thấy nó. Hiểu không? Chúng ta được sanh ra, anh chị em không thể tự làm khác đi được. Anh chị em được sanh ra cách ấy. Hiểu không? “Các sự ban cho và sự kêu gọi không có sự hối tiếc.” Nó làm điều ǵ? Bày tỏ Đức Chúa Jêsus Christ. Ngài hôm qua, ngày nay, và cho đến đời đời không hề thay đổi.

337    Với tay anh chị em đặt lên nhau, tôi tin rằng anh chị em sẽ đặt ḷng ḿnh vào sự quan tâm của Đức Chúa Trời ngay giờ này, “Lạy Chúa, xin hăy t́m kiếm con. Con đă trở nên quá tê liệt với những việc thuộc về thế gian, đến nỗi con không thấy th́ giờ vĩ đại đang đi qua?”

338     Anh em biết đó, đó là cách nó luôn xảy ra. Nó đi ngay qua Giáo hội, mà họ không bao giờ biết điều đó. Đó là lịch sử. Đừng để nó đi qua, thưa các bạn, thấy Lời được chứng minh, lặp đi lặp lại, thấy Lời của Đức Chúa Trời bày tỏ, và chính thân vị của Đức Chúa Jêsus Christ đến ngay giữa dân sự này và làm chính xác cách Ngài đă làm trước đây.

339    Kính lạy Cha Thiên Thượng, giờ này con cảm thấy rằng Lời Ngài đă được đọc, Chúa ơi. Lời làm chứng được đưa ra. Đức Thánh Linh giáng xuống và chứng thực Lời ấy và làm chứng. Bây giờ điều đó ở trong tay của dân sự, Chúa ơi. Nó nằm trong ḷng họ. Không có ǵ khác mà con biết để nói. Con không biết bất cứ điều ǵ khác Ngài đă chép trong Lời, rằng Ngài sẽ làm, bởi v́ Ngài đă chữa lành họ rồi. Điều đó chỉ làm cho họ tin. Ngài đang làm điều này giống như vầy, và làm sao chúng con có thể nghi ngờ nữa? Làm sao chúng con có thể cho phép Sa-tan làm mờ đi ư thức của chúng con lâu hơn?

340    Ớ Sa-tan, ta tuyên bố sự chữa lành trên những người này, và nói với ngươi, “Ta bắt ngươi trong Danh Đức Chúa Jêsus Christ, hăy ra khỏi nơi này. Hăy ra khỏi trong Danh Đức Chúa Jêsus Christ, và để cho những người này đi.”

341    Bây giờ, nếu anh chị em tin Ngài, hăy đứng lên tại chỗ. Anh chị em tin không? [Hội chúng nói, “A-men!” - Bt] Hăy đứng dậy trên chân của ḿnh, và dâng sự ngợi khen cho Đức Chúa Trời. Hăy đứng lên và tin điều đó. Đừng nghi ngờ nó nữa.

342    Trong Danh Đức Chúa Jêsus Christ, hăy để Đức Thánh Linh mang sự vui mừng, quyền năng, sự sống lại của Sự sống đến cho những người này, Chúa ôi!

343    Hăy dâng sự ngợi khen cho Ngài và chúc tụng Danh Thánh Ngài. Chúng ta yêu mến Ngài. Chúng ta ngợi khen Ngài. Chúng ta tôn thờ Ngài, Đấng Vô song, Đấng Toàn Năng, Con của Đức Chúa Trời Hằng Sống. Trong Danh Ngài, hăy tiếp nhận Ngài. Ngài ở đây. A-men!